“Có một dục vọng đáng lo ngại thúc đẩy con người: tạo ra bản sao nhân tạo của chính mình, theo cách Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chính Ngài” – Trích từ “Trí tuệ nhân tạo hay Thách thức thể kỷ” – Tác giả Eric Sadin, một trong những nhà tư tưởng hàng đầu về trí tuệ nhân tạo, thứ được ông mô tả là sức mạnh Alethique, nghĩa là Sự thật trong tiếng Hy Lạp.
Tại sao chúng ta sống?
Tôi bắt đầu đặt câu hỏi này khi vào quảng 10 tuổi, bắt đầu đối mặt với một xã hội thu nhỏ trong gia đình, hàng xóm, lớp học… một cách thường xuyên hơn và tự lập suy nghĩ hơn, và cũng chuẩn bị vào hành trình kiên trì thiền định hàng ngày. Từ hồi đó tôi trải qua nhiều mặc khải về sự sống, về cái chết thông qua những hoàn cảnh đặc biệt, những giấc mơ, những sự kiện nổi bật trong đời. Tuy nhiên, tôi vẫn khuyên một vài người quen khi được hỏi rằng “Sự sống nhất định có ý nghĩa của nó, nhưng vấn đề là ta không nhất thiết phải hiểu cặn kẽ ý nghĩa của ta là gì để chấm dứt hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Điều gì xảy ra sau khi ta thực sự tìm được câu trả lời mà ta cho rằng đúng đắn về ý nghĩa cuộc sống của bản thân? Hãy suy nghĩ về điều đó. Trong khi đó, hãy tận hưởng từng giây phút sống, đón nhận mọi thứ dù thành công, thất bại, nhục nhã hay vinh quang, vui hay buồn….”
Hầu hết nền văn hóa trên thế giới, tôn giáo, nhà khoa học, nhà thần học, nhà triết học… tự cổ chí kim đều đặt câu hỏi này và có thể chia ra thành một số câu trả lời cơ bản như sau.
- Không có ý nghĩa gì đặc biệt ẩn sau việc chúng ta được sinh ra, mọi thứ xảy ra đều là từ các phản ứng sinh – hóa, ngay cả suy nghĩ để tạo ra các dòng chữ này cũng là một loạt những phản ứng sinh hóa xảy ra trong hệ thần kinh dẫn truyền tới các cơ quan liên quan tới việc đánh máy, nhìn, suy nghĩ. Cuộc sống bị chi phối bởi các phản ứng hóa học diễn ra một cách ngẫu nhiên và không có định hướng.
- Sigmund Freud, trong lý thuyết phân tâm học của mình, không đưa ra một “ý nghĩa triết học lớn lao của cuộc sống”, mà thay vào đó khám phá những động lực và thúc đẩy vô thức hình thành nên hành vi của con người. Ông cho rằng cuộc sống là cuộc đấu tranh liên tục giữa Eros (bản năng sống) và Thanatos (bản năng chết), với những cá nhân tìm kiếm khoái lạc và sự sống còn trong khi cũng có động lực tiềm thức hướng tới cái chết và sự hủy diệt.
- Carl Gustav Jung tin rằng ý nghĩa của cuộc sống nằm ở hành trình cá thể hóa, là quá trình tích hợp mọi khía cạnh của bản thân, bao gồm cả vô thức, để đạt được cảm giác toàn vẹn và mục đích. Điều này bao gồm việc đối mặt với bóng tối, chấp nhận nghịch lý và nhận ra tiềm năng độc đáo của một người. Jung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối mặt với những câu hỏi hiện sinh, như ý nghĩa của sự sống và cái chết, để tìm ra ý nghĩa trong thế giới này.
- Viktor Frankl, người sáng lập ra liệu pháp ý nghĩa và là tác giả của “Man’s Search for Meaning”, tin rằng ý nghĩa của cuộc sống không phải là một chân lý phổ quát mà là một chân lý cá nhân được khám phá thông qua việc tìm kiếm mục đích và chịu trách nhiệm. Ông lập luận rằng ý nghĩa có thể được tìm thấy trong công việc sáng tạo, trải nghiệm tình yêu và các mối quan hệ, và thậm chí trong cách một người đối mặt với đau khổ không thể tránh khỏi. Frankl nhấn mạnh rằng ngay cả khi đối mặt với khó khăn cùng cực, các cá nhân vẫn giữ được quyền tự do lựa chọn thái độ của mình và tìm thấy ý nghĩa trong hoàn cảnh của họ.
- Đức Phật thì sao? Đức Phật dạy rằng cuộc sống không có ý nghĩa cố hữu, được định sẵn. Thay vào đó, mỗi cá nhân phải tự tạo ra ý nghĩa của riêng mình thông qua hành động và lựa chọn của mình, và cuối cùng là thông qua sự giải thoát khỏi đau khổ. Điều này bao gồm việc hiểu bản chất của thực tại, bao gồm cả tính vô thường của mọi thứ và vai trò của vô minh và ham muốn trong việc gây ra đau khổ.
- Lời dạy của Chúa Jesus về ý nghĩa của cuộc sống tập trung vào mối quan hệ với Chúa và tập trung vào tình yêu và sự phục vụ. Ngài nhấn mạnh rằng ý nghĩa thực sự của cuộc sống được tìm thấy trong việc biết và tận hưởng Chúa, và phản ánh tình yêu của Ngài trên thế giới thông qua các việc làm tốt. Ngài cũng nhấn mạnh khái niệm về sự sống vĩnh cửu, có được thông qua đức tin vào Ngài, mang đến một số phận vượt ra ngoài sự tồn tại trần gian.
- Lời dạy của Tiên tri Muhammad nhấn mạnh rằng ý nghĩa của cuộc sống nằm ở việc tuân theo ý muốn của Chúa và phục vụ Ngài. Điều này bao gồm việc nhận ra tính thiêng liêng của cuộc sống con người, sống một cuộc sống có mục đích và phấn đấu để phát triển tâm linh. Cuối cùng, mục tiêu là chuẩn bị cho cuộc sống sau này và giành được sự ưu ái của Đức Chúa Trời.
Tại sao có ham muốn sinh sản?
Nhắc tới ý nghĩa sự sống có thể chúng ta sẽ không thể bỏ qua được câu hỏi vốn dĩ đi ngay cùng với nó “Tại sao có ham muốn sinh sản” “Sự sinh sản mang ý nghĩa gì ngoài việc truyền lại những năng lượng được đóng khung trong mật mã mang tên gen di truyền?”
Chúng ta lặp lại ý tưởng về sức mạnh của sự thật mà Eric Sadin phát biểu “Có một dục vọng đáng lo ngại thúc đẩy con người: tạo ra bản sao nhân tạo của chính mình, theo cách Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chính Ngài” đã nêu ra trong đầu bài viết này như một lời nhắc nhở với tất cả rằng, đây là một dục vọng cơ bản của con người, tuy nhiên, dục vọng này không phải thuần túy lý tính, nó là một dục vọng có thể coi như dục vọng nguyên thủy đã được đặt trong bộ gen mã hóa khi “Chúa” tạo ra con người dưới hình hài của chính mình. Vậy, nếu Chúa Trời tạo ra con người với hình hài và những xung động, DNA, bộ gen… như thế này thì Chúa Trời có sinh sản không? Và nếu có thì theo cách như thế nào? Để trả lời câu hỏi này có lẽ, các nhà sinh học sẽ là những người hào hứng nhất vì họ có trong tay dữ liệu về mọi loại hình sinh sản trên trái đất theo hiểu biết tới thời điểm hiện tại, ít nhất là các dạng sống Carbon (biết đâu đấy, có những dạng sống không carbon và không tồn tại trên trái đất hoặc trong điều kiện khắc nghiệt, dưới lòng đất, hay dưới đáy đại dương chẳng hạn). Tuy nhiên, những câu hỏi có liên quan tới phậm trù tôn giáo thì không phải dễ dàng được chấp nhận hoặc thậm chí xem xét nên chúng ta bỏ qua và chỉ nói về con người thôi.
Không khó để thấy trong chính bản năng của chúng ta, trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi dòng họ bất kể mọi tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ học vấn, nền văn hóa, quốc gia, ngôn ngữ, màu da, nhóm máu… chúng ta đều có thể đâu đó tìm thấy ý tưởng về ý muốn sinh sản trong mỗi người. Không bàn sâu về phạm trù sinh học, trong phạm trù tinh thần trở lên sẽ gần với phạm trù ý thức và vô thức hơn ta thấy rằng.
Khát vọng tạo ra một phiên bản giống như bản thân là một động lực đáng kể nhất để con người sinh sản. Hãy nhìn xung quanh mà xem, khi một đứa trẻ ra đời, người ta thường không nhìn nó như chính nó, một số người sẽ nói nó giống bố, một số người nói nó giống mẹ, một số người nói nó giống ông, giống bà… lớn hơn một chút họ bắt đầu nói đứa trẻ có chi tiết này giống người này, chi tiết kia giống người kia. Nếu giống chính người nói, họ lúc nào cũng vui hơn, còn nếu giống một người mà họ không ưa, họ không vui nữa…. Rồi cũng nhìn xem, có mấy ai tự chê con mình xấu, con mình hư, con mình dốt (thật lòng nhé, hình thức thì nhiều). Vì họ nghĩ điều đó đang nói về chính mình, vì con họ là hình hài của họ tạo ra giống như cách Chúa tạo ra con người vậy. Thật không may cho con người rằng họ là động vật sinh sản có tính, sự kết hợp của 2 bộ gen khác nhau tạo ra một đứa trẻ nên về cơ bản, nó sẽ không bao giờ chỉ giống một trong hai người, luôn có tỷ lệ về cả ngoại hình lẫn tính cách, về cả thể chất lẫn tinh thần, thậm chí tôi tin rằng bộ gen hiện hữu trong mỗi người là kết hợp tích lũy trường thông tin qua nhiều đời, nhiều kiếp theo chiều dọc của từng dòng họ. Điều đó cũng thôi thúc con người khám phá bản thân và tìm về cội nguồn mãnh liệt. Những đứa trẻ mồ côi được nuôi dưỡng bởi các gia đình tử tế, khi trưởng thành vẫn thường có một nỗi khắc khoải không thể diễn tả sâu bên trong khi mong muốn tìm về cội nguồn chín muồi và trỗi dậy. Điều này một lần nữa được nhận thức sâu sắc và phát biểu năm 1984 bởi George Orwell “cách hiệu quả nhất để hủy hoại một dân tộc (people) là phủ nhận và xóa bỏ sự hiểu biết của chính họ về lịch sử của họ”. Theo nguyên lý tương ứng “As above So below”, đối với một cá nhân cũng như vậy.
Thời gian – Vị thần hùng mạnh nhất vũ trụ
Một khát vọng khác tiềm ẩn hoặc hiển lộ trong nhiều người, đặc biệt những người đi từ tầng lớp thấp lên các tầng lớp cao hơn đó là khát vọng sinh sôi nảy nở để duy trì sự thịnh vượng khó khăn lắm mới đạt được. Chưa kể, phần chung có một khát vọng vô thức là khát vọng trở nên bất tử, với khát vọng này tất cả đã bị tạo hóa giáng cho một cú tát vào mặt khi gieo vào ý tưởng về sự tồn tại của “Thời gian” mặc dù chính ý thức về thời gian mới thôi thúc khát vọng trở nên bất tử chứ không phải ý thức về sự bất tử tồn tại trước nhận thức về thời gian.
Tôi nhớ trong một câu chuyện thời thơ ấu đọc được về các vị thần hùng mạnh nhất trong vũ trụ thì có rất nhiều vị thần, trong đó có thần sức mạnh với cơ bắp cuồn cuộn… rồi tới một vị thần già nua nhỏ bé tưởng chừng như dễ dàng quật ngã thì lại là người duy nhất không thể suy chuyển. Đó là vị thần tuổi tác (trong trí nhớ của tôi là vậy) nhưng tôi cứ gọi là vị thần thời gian, vị thần hùng mạnh nhất trong vũ trụ các vị thần.
Nếu không phải vì thời gian hạn chế, có lẽ chẳng ai lao vào một cuộc yêu và mau chóng kết hôn, mau chóng sinh sản để lãng phí mất tuổi xuân đang rong chơi vui vẻ. Nếu không vì thời gian, chẳng ai muốn sinh sản khi đang tuổi ăn, tuổi chơi, tuổi học, thậm chí là tuổi đi làm… Lúc nào chán hết rồi đẻ cho vui, cho khỏe. Khi sinh sản, đứa trẻ là gánh nặng của người phụ nữ, nhưng đàn ông thì sẽ bao gồm cả đứa trẻ và người phụ nữ. Hẳn là cả 2 giới đều không muốn giống như nhau, nếu thời gian chẳng tồn tại và cái chớp mắt của Thượng đế không làm con người phải lay động, sợ hãi vì không có khái niệm về thời gian nữa.
Một vài suy tư của tôi về sự sinh sản
Suy nghĩ cá nhân không thể xuất phát từ hư không, mặc dù đó là điều lẽ ra nên là. Nhưng nếu như nó là, có lẽ cá nhân đó đã lại là một Beethoven tiếp theo khi mà những nốt nhạc cứ như chảy từ suối nguồn hư không nào đó tới đầu ngón tay của ông. Tuy nhiên, tôi không phải mẫu người đó, tôi là mẫu người của những sự giằng xé không phải mơ hồ mà luôn rõ ràng, những cuộc chiến bất tận chưa bao giờ ngưng lại và kết thúc tạm thời là sự tái sinh cùng với chiến thắng tạm thời của một mặt nào đó, của sự dễ dãi và sự kỷ luật, của tình yêu và sự thống trị, của vị tha và vị kỷ, của tương lai huyền hoặc và quá khứ u tối rồi kết thúc trong khoảng không trống rỗng hiện tại.
Để có thể nói về chủ đề này, có lẽ phải phơi bày một thực tế về hệ thống niềm tin sâu sắc, không còn là niềm tin, nó trở thành một tôn giáo trong trái tim và là Đức tin như hơi thở là sự sống vậy. Có vài đức tin cơ bản trong tôi: tôi tin răng sự giác ngộ không có chỗ trụ có nghĩa là ý nghĩa cuộc sống của có thể thực sự được thấy khi không còn nơi để quay về khi không còn gì để đối chiếu và so sánh, khi không cần nỗ lực và chỉ có thể cảm nhận trong từng tế bào chứ không thể thấy nó như nó hiển hiện vì vốn dĩ nó không hiển hiện trong các giác quan, nó là một bản nhạc không bao giờ có thể hiển thị với 1 nhạc cụ duy nhất; một đức tin tiếp theo là đức tin vào dòng chảy tâm linh chính là dòng chảy năng lượng bất tận không chỉ trong không gian mà vượt không thời không có bắt đầu hay kết thúc; một đức tin nữa gần gũi hơn với cơ thể vật lý của con người rằng con người được tạo ra mang theo nghiệp của đấng sáng tạo và người này với người khác giống như tay với chân, lông với tóc trên cùng 1 cơ thể. Dĩ nhiên, còn nhiều chi tiết lớn – nhỏ khác nữa nhưng chẳng thể phơi bày hết vì đơn giản đó giống như nước sau khi đã ngấm xuống đất rồi thì ai bảo nó ngấm vào mạch nào nữa đâu, trái hay phải, trên hay dưới, trước hay sau, nông hay cạn, chỉ cần biết rằng mạch nhỏ sẽ chảy vào mạch to, rồi sẽ có suối, sông và mọi con sông đổ về biển lớn như lời nhắc nhở của Mẹ thiên nhiên với đầu óc thô ráp của con người về quy luật tất yếu!
Tôi tin rằng con người được sinh ra có ý nghĩa, mỗi hành động, mỗi khổ đau, mỗi thành công, mỗi thất bại, mỗi mối quan hệ…. Đều ẩn chứa những giá trị của nó và đánh dấu những bài học cũng như phần thưởng của Chúa (tôi dùng từ Chúa không mang theo ý nghĩa tôn giáo chỉ là muốn dùng từ đó để miêu tả một lực sống tự nhiên không rõ ràng, có thể là bất kỳ điều gì tùy thuộc niềm tin của mỗi người, có thể ai đó nghĩ rằng đó là một vị thần Karma nào đó, không có gì đúng và sai, không có gì tốt và xấu ở đây, vậy nên nếu người đọc là người theo Đạo hãy rộng lượng với từ này mà tôi sử dụng, chỉ để đỡ phải viết quá dài một từ hoặc viết quá trừu tượng). Và tôi tin rằng những đứa trẻ đến với một thông điệp có sức nặng đáng kể nhất trong những mối quan hệ vì chúng mang thông điệp từ cõi vô hình, từ nghiệp hành động, nghiệp suy nghĩ, nghiệp tích lũy mà tới. Chúng không tới để chữa lành, và thực tế không ai có thể chữa lành được cho người khác ngoài chính bản thân mỗi người. Sự sinh sản giúp soi sáng những điều ẩn chứa bên trong mỗi người mà vốn dĩ rất khó có thể soi sáng được, đó có thể là những sự đổ vỡ của mối quan hệ bản thân với cha mẹ, với gia đình, nó có thể nhắc nhở về những sai lầm ngay cả trong mong cầu của người cha mẹ sinh ra chúng, nó cũng có thể là một món quà Thượng đế nhắn gửi tới người sinh ra nó với mục đích hãy nuôi lớn nó và ý nguyện đặc biệt của Thượng đế sẽ được thấy thông qua sự tồn tại của đứa trẻ đó. Ngoài ra, về mặt sự tiếp nối của dòng chảy không thời, của thứ mà chúng ta gọi là sự sống giống như 1 giai đoạn ngắn ngủi chuyển giao giữa các sự sống khác nhau với mục đích để chuyển hóa điều gì đó trong vô số dòng chảy tâm linh khác nhau cả chiều ngang lẫn chiều dọc, tôi tin rằng những đứa trẻ là sự tiếp nối của những suy tư, lý tưởng chân thật xuất phát từ những người đàn ông (giống đực) nhờ sự nuôi dưỡng của đàn bà (giống cái) mà thành hình. Nó tới trái đất bởi sự phù hợp trong suy tư, lý tưởng đó giống như di nguyện của người cha và thông qua người mẹ để lớn thành hình hài. Điều này nó thì mơ hồ trừu tượng như có thể hiểu cũng đơn giản như thế này, vì giống đực trong tự nhiên mang trong mình những đặc tính của sự chủ động, hướng ra… giống cái thì mang trong mình đặc tính tự nhiên của sự bị động, hướng vào… Đàn ông có suy nghĩ sẽ tìm kiếm một nơi để tiếp tục dòng dõi là một người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, có khả năng kinh tế… thì họ sẽ chỉ tìm những người như vậy để tiếp tục. Trong khi đó, nhiều người đàn ông khi đã có đủ những thứ đó, họ tìm kiếm một nơi sinh sản mang đặc tính nữ thùy mị, một gia đình với truyền thống, một dòng họ tốt, một người có xu hướng thu mình về chăm sóc thay vì hướng ra. Kết quả là những đứa trẻ sẽ ra đời mang trong mình sự kết hợp của bộ gen 2 người nam – nữ nhưng bộ gen đó được biểu hiện như thế nào thì phụ thuộc cực kỳ lớn vào môi trường bên ngoài, đồ ăn, nước uống, môi trường tâm linh, và hệ vi sinh trên cơ thể, trong đường ruột… đều tham gia vào quá trình biểu hiện gen. Bằng các liệu pháp gen, chúng ta đã phần nào khám phá ra được nhiều ý nghĩa của sự kết hợp tính nam nữ trong quá trình sinh sản. Nhưng đa số các tài liệu cả khoa học, tâm linh, tôn giáo, truyền thống kế thừa từ thời truyền khẩu đều cho thấy những đứa trẻ mang đặc tính thuộc về phần xác thịt vật chất của người mẹ nhiều hơn và mang phần tinh thần của người cha như một cách truyền ý nguyện của người cha trực tiếp tới người con, người con là kẻ cầm ngọn đuốc đó tiếp tục thắp sáng các thế hệ sau này cho người cha, và người mẹ là người hỗ trợ đắc lực để giúp người cha hoàn thành các ý nguyện đó thông qua việc nuôi dưỡng đứa trẻ. Cách hiểu này không hề làm giảm đi giá trị của người nữ hay tăng cường giá trị của người nam, nó chỉ là một cách hiểu mang tính cá nhân về ý nghĩa của sự sinh sản, ý nghĩa của tính nam, nữ theo trực giác tự nhiên.
Trên đây là một vài những tóm tắt và suy tư của cá nhân tôi sau 37 năm bước vào thế giới này trong hình hài một đứa trẻ đỏ hỏn cho tới những năm tháng tiểu học bắt đầu suy tư nhiều về sự sống và cái chết, về các ngôi sao và người ngoài trái đất, về ý nghĩa của sự tồn tại, về thời gian và không gian, cùng với đó là 1 năm với đầy mặc khải mạnh mẽ, kích động tới từng tế bào, gần đây nhất là lần đầu tiên hình ảnh ra đi của chính bản thân để tham gia vào cuộc tái sinh đầy gian nan nhưng vinh quang trong suy tưởng. Tôi được thấy vô vàn thế giới khác nhau và những thực tại rất đỗi mềm dẻo chứ không cứng nhắc như nhiều người thấy trong thực tại này, rằng vạn vật trong vô vàn thế giới đều từ tâm, từ trong tâm thức những hạt giống nảy mầm và bắt đầu sinh sôi cùng với trùng trùng duyên khởi và sinh khởi cùng vô minh ra như thực tại như chúng ta vẫn định nghĩa.
Trải thêm…
Đến bây giờ, niềm tin của tôi về một cuộc đời trở nên mềm dẻo hơn, vì đó không phải là một hành trình ngắn, nó chỉ là 1 đoạn chảy của dòng sông qua 1 khúc cua nhưng trước đó đã hàng ngàn cây số chảy, sau đó dòng chảy dài như bất tận. Quá khứ – Hiện tại – Tương lai không phải sự tiếp nối, tất cả đều đồng thời tồn tại, mọi thứ cùng dao động, mọi thứ cùng thay đổi, không có trước – sau, không có tốt – xấu, không có đúng – sai,… chỉ có điều xảy ra vì nó phải xảy ra, có cây ngô vì ai đó đã gieo hạt ngô vào một mảnh đất đủ màu mỡ.
“Chúng ta có thể trở thành bất cứ thứ gì chúng ta lựa chọn” – nhưng không bao giờ có thể khiến người khác trở thành thứ mà chúng ta lựa chọn.
Và tôi cũng không còn tin rằng con người là một sinh vật lý tính có cảm xúc, mà tin rằng con người là một sinh vật cảm tính có khả năng suy nghĩ. Và rằng con người không phải một cơ thể vật lý có linh hồn, mà thực sự tôi tin rằng con người là một linh hồn tồn tại trong một cơ thể vật lý. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa các cá thể chỉ đúng ở mặt vật lý, còn phần sâu thẳm trong linh hồn, sẽ không có sự phân biệt tách rời hoàn toàn, nó sẽ giống như những phần khác biệt của 1 cơ thể lớn như ngón tay với ngón chân, như một sợi tóc với 1 sợi tóc khác trên cùng 1 mảng da đầu….
Và tìm hiểu sâu về ý nghĩa của sự sinh sản không tách rời việc tìm kiếm ý nghĩa thực sự của sự sống. Nhưng cuối cùng dù có tìm được hay không tìm được, chúng ta vẫn đang sống, vẫn đang tận hưởng từng khoảnh khắc tươi đẹp trên cõi đời và câu trả lời không nhất thiết phải do bạn cố công tìm kiếm mà đến. Nó thường xuất hiện trong những trạng thái tâm mở rộng vô hạn, tình yêu thuần khiết và sự hi sinh thầm lặng vì nó là sự thật cuối cùng nên không phải ai cũng có thể nhận ra, đôi khi, chúng ta dí sát mắt vào 1 bức tường và chỉ thấy một màu trắng mà không thể nhận ra mắt ta đang đối diện một bức tường. Lùi lại nhiều bước, khiêm nhường, cầu thị, hi sinh, nhẫn nại, vị tha và kiên trì… tất cả sẽ đến cùng một lúc cho những ai chưa thấy mà tin.
Và liệu rằng, khi con người được khai mở thì thế giới như hiện tại chúng ta đang thấy có trải qua một Vụ nổ kỷ Cambri tiếp theo không? Khi mà một giả thuyết cực kỳ thuyết phục về sự phat triển thị lực hiện đại ở khoảng 500 triệu năm trước đã dẫn tới sự phát triển ồ ạt cùng tiến hóa nhanh không tưởng của các loài sinh vật hay hiểu là các dạng sống tiền đề của thế giới vật chất hiện tại. Nếu có điều tương tự như vậy xảy ra trong thế giới của linh hồn thì chúng ta, loài người, bằng việc đi tìm kiếm mọi ý nghĩa của sự sinh sản – ý nghĩa của sự sống, về linh hồn và năng lượng tinh thần sẽ cùng nhau chuyển sang những mô thức dạng sống mới, giống như mô tả trong kinh sách của mọi tôn giáo, giống như Nước Chúa, cõi Tịnh độ, Tây Phương Cực Lạc…
Tôn vinh sự sống và sự sinh sản như ngọn lửa duy trì sự tiếp nối!
Ý kiến của bạn