Các khái niệm và lý thuyết của vật lý lượng tử thường phản trực giác, bất chấp các định luật vật lý cổ điển. Một trong những khía cạnh hấp dẫn nhất của vật lý lượng tử là khả năng làm sáng tỏ bản chất của ý thức và mối liên hệ của nó với khái niệm về cái chết. Bài viết này khám phá khả năng không thể chết theo vật lý lượng tử và ý nghĩa của nó đối với sự hiểu biết của chúng ta về sự sống, cái chết và ý thức. Từ đó có thêm một số manh mối liên hệ tới tôn giáo. Và quả thực, từ lâu nay, Vật lý nói riêng, khoa học nói chung càng ngày càng trở nên tiệm cận với tôn giáo.
Sự bất tử lượng tử: Giải thích nhiều thế giới
Sự bất tử của lượng tử là một thí nghiệm tưởng tượng dựa trên Giải thích nhiều thế giới (MWI) của cơ học lượng tử, do nhà vật lý Hugh Everett III đề xuất vào năm 1957. MWI gợi ý rằng mỗi khi một sự kiện lượng tử xảy ra, vũ trụ lại chia thành nhiều nhánh, tạo ra các thực tại song song. Trong mỗi nhánh này, một kết quả khác nhau của sự kiện diễn ra. Do đó, có vô số vũ trụ song song với các phiên bản thay thế của chính chúng ta.
Theo sự bất tử lượng tử, khi một người (ý nói thân xác) chết trong một vũ trụ, ý thức của họ tiếp tục tồn tại ở một vũ trụ khác nơi họ sống sót sau sự kiện chết người đó. Khái niệm này ngụ ý rằng trải nghiệm chủ quan của chúng ta về cuộc sống là vĩnh cửu, khi ý thức của chúng ta chuyển tiếp liền mạch giữa các vũ trụ song song này. Nói tới đây, có thể nhiều người sẽ nghĩ tới bộ phim Cuộc chiến đa vũ trụ đình đám mới chiếu năm vừa rồi và chiếu lại vào năm nay. Quả thực, đó là một giả thuyết thú vị khi chúng ta liên hệ giữa vật lý lượng tử với Ý thức.
Ý thức trong một ý nghĩa cơ học nào đó chỉ đơn giản được hiểu là những tín hiệu sóng được hình thành từ sự tương tác giữa các chất hóa học trong cơ thể theo nhiều cơ chế phức tạp. Tuy nhiên, theo tôn giáo và theo góc nhìn của vật lý lượng tử nếu chúng ta thừa nhận rằng Cái “trống rỗng” vốn phải có trước “ý thức” và thể xác thì rất có khả năng chúng ta lại quay về với vật lý lượng tử để bàn về ý thức và thân xác.
Hiểu biết của con người về chính bản thể còn quá ít, cũng ít chẳng kém so với hiểu biết về vũ trụ. Có vẻ như một trong những cách khám phá vũ trụ là khám phá chính chiều sâu của mỗi bản thể. Giống như Hermes đúc kết quy luật tương ứng “trên như nào thì dưới như vậy và ngược lại”. Để hiểu được cái vô cùng lớn như vũ trụ thì nghiên cứu cái vô cùng nhỏ như lượng tử, chẳng phải thật sự là logic hay sao?
Vai trò của người quan sát trong cơ học lượng tử
Vai trò của người quan sát trong cơ học lượng tử càng làm phức tạp thêm mối quan hệ giữa ý thức và thực tại. Khi chúng ta quan sát mọi sự vật, hiện tượng bằng các giác quan thông thường, quả thật nếu chỉ đơn thuần là nhìn bằng suy nghĩ thường dùng chúng ta sẽ cho rằng người quan sát không đóng vai trò trong việc tồn tại của vật thể, ví dụ như cho dù có là bạn hay là tôi, cho dù nhìn ngang hay nhìn dọc thì cái cốc vẫn là cái cốc, cái bàn vẫn là cái bàn. Tuy nhiên, ở trên khía cạnh cổ điển này thôi, điều đó có vẻ như đã không thực sự đúng nếu như chúng ta nhìn nhận mọi thứ khác đi một chút, hãy thử dí sát mắt của một người vào một tờ giấy màu đen, bạn nghĩ xem, họ sẽ thấy gì? Sẽ chỉ là màu đen, đơn giản vậy thôi. Nhưng cũng người này, nếu để giấy đen ra xa, cách 1 thước, có lẽ câu trả lời đã khác. Đó là sự khác biệt của nhận thức khi thay đổi vị trí quan sát.
Từ khi thí nghiệm về lưỡng tính sóng hạt của Ánh sáng được chứng minh thì mọi thứ trở nên thú vị hơn rất nhiều, đặc biệt là vật lý lượng tử. Người quan sát trở thành một phần của nhận thức khách quan.
Theo diễn giải Copenhagen, một quan điểm được chấp nhận rộng rãi về cơ học lượng tử, các hạt tồn tại ở trạng thái chồng chất cho đến khi được quan sát. Sau khi được quan sát, hàm sóng sụp đổ và hạt đảm nhận một vị trí xác định. Cách giải thích này gợi ý rằng ý thức của chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thực tại. Điều này đúng trong thế giới trần tục chúng ta thấy. Hãy xem truyền thông đã làm gì với nhận thức của con người, chúng ta sẽ hiểu phần nào. Tuy nhiên, bài này chúng ta chỉ trao đổi về vật lý lượng tử và tính bất tử nên thôi, bỏ qua nhé.
Nếu ý thức của chúng ta ảnh hưởng đến hành vi của vũ trụ, nó sẽ đặt ra câu hỏi về bản chất của cái chết. Một số người cho rằng vai trò của người quan sát trong cơ học lượng tử ngụ ý rằng ý thức của chúng ta có thể tiếp tục tồn tại sau cái chết vật chất, tồn tại ở các dạng khác hoặc các thực tại thay thế.
Nguyên lý bất định của Heisenberg
Năm 1927, nhà vật lý người Đức Werner Heisenberg đã công bố Nguyên lý bất định Heisenberg, hay đơn giản là Nguyên lý bất định, phát biểu rằng không thể đo đồng thời cả động lượng và vị trí của một hạt. Ở một thời điểm nếu chúng ta quan sát và xác định được đúng vị trí của một hạt thì chúng ta không thể xác định được động lượng của hạt đó và ngược lại. Trong thế giới lượng tử, không có chuyện bạn nói rằng một điểm đang ở chính xác vị trí này và vận tốc được xác định là bao nhiêu. Nghe có vẻ nực cười, nhưng đây là kết quả được chứng minh bằng thực nghiệm và đã được thừa nhận rộng rãi trong khoa học và phần nào bám sát tôn giáo.
Cũng theo Heisenberg thì có lẽ chúng ta đang thực sự sống trong một thế giới không thật, một thế giới của các khả năng và rằng “Bản thân các nguyên tử hoặc hạt cơ bản là không có thật; chúng tạo thành một thế giới tiềm năng hoặc khả năng hơn là một trong những sự vật hoặc sự kiện.” Chúng ta biết rằng hạt cơ bản là thứ tạo nên các loại hạt khác và có phân tử, và có tế bào, và có sự sống và có não bộ để chúng ta nghĩ như tôi đang ngồi đánh máy đây chẳng hạn. Vậy cái gốc rễ của nó đã là bất định, là không thật thì có thể có gì là thật sau đó?
Những thách thức và tranh cãi về sự bất tử của lượng tử
Sự bất tử lượng tử là một khái niệm gây tranh cãi và suy đoán, và nhiều nhà khoa học phản đối. Các nhà phê bình chỉ ra rằng MWI chỉ là một cách giải thích của cơ học lượng tử và các cách giải thích khác không ủng hộ ý tưởng về vũ trụ song song hoặc sự bất tử lượng tử.
Hơn nữa, không có bằng chứng thực nghiệm trực tiếp nào về sự tồn tại của các vũ trụ song song hoặc sự tồn tại của ý thức sau cái chết. Cho đến khi bằng chứng như vậy được tìm thấy, khái niệm về sự bất tử lượng tử vẫn là một ý tưởng hấp dẫn nhưng chưa được chứng minh.
Giao lộ hấp dẫn của vật lý lượng tử và bản chất của thực tại
Tính Bất tử (không thể chết) theo vật lý lượng tử là một khái niệm hấp dẫn và kích thích tư duy, thách thức hiểu biết của chúng ta về sự sống, cái chết và bản chất của thực tại. Mặc dù ý tưởng về sự bất tử lượng tử vẫn là một chủ đề gây tranh cãi và suy đoán, nhưng nó làm nổi bật sự giao thoa hấp dẫn giữa cơ học lượng tử và ý thức.
Khi chúng ta tiếp tục khám phá những bí ẩn của lĩnh vực lượng tử và phát triển các lý thuyết và cách giải thích mới, chúng ta có thể khám phá ra những sự thật định hình lại hiểu biết của chúng ta về sự tồn tại và vũ trụ. Hiện tại, khái niệm về sự bất tử lượng tử đóng vai trò như một lời nhắc nhở về những khả năng vô hạn và sự phức tạp sâu sắc mà vũ trụ nắm giữ, mời gọi chúng ta suy ngẫm về bản chất của thực tại và vị trí của chúng ta trong đó.
Lời kết
Nếu bạn là một người theo chủ nghĩa duy vật hoặc duy tâm thuần túy thì chẳng có gì để bàn ở đây vì chủ nghĩa duy vật cho rằng sự vật có trước và người quan sát có sau, và rằng dù có là ai quan sát đi chăng nữa thì sự vật đó vẫn là sự vật đó, không thay đổi. Còn chủ nghĩa Duy tâm thì ngược lại cho rằng Tâm thức có trước và sự vật có sau. Tranh cãi về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chẳng khác gì tranh cãi rằng Vật lý cổ điển của Newton hay Vật lý lượng tử là đúng? Chúng ta, cuối cùng sẽ phải tìm ra một câu trả lời ở giữa hai khái niệm. Một mặt chúng ta cần tồn tại trong thế giới vật chất với sự thống trị của chủ nghĩa duy vật – có thực mới vực được đạo và vật lý cổ điển, nhờ đó chúng ta có xe cộ, máy móc phổ biến hiện nay… Một mặt chúng ta cần phải sống, tiến lên phía trước và hiểu về ý nghĩa của sự tồn tại, khám phá các chân trời khoa học mới, vũ trụ, các hành tinh, về sự sống và cái chết… Ở nơi đó, vật lý lượng tử, cùng với tính bất tử của nó lại trở thành một yếu tố dẫn dắt chủ đạo!
Càng tìm hiểu thêm về những điều như này, về khoa học, chúng ta lại càng thấy Trung Đạo của ngài Long Thọ quả thật là kim chỉ nam cho sự phát triển tư duy con người trong kỷ nguyên mới của con người. Tôi tin rằng đây là kỷ nguyên con người sẽ Tái phát minh ra những tiến bộ của các nền văn minh cổ xưa ẩn trong những lời dạy của các bậc giác ngộ. Chẳng hạn như.
Kinh thánh, John 17:11: “And now I am no more in the world, but these are in the world, and I come to thee. Holy Father, keep through thine own name those whom thou hast given me, that they may be one, as we are. “I have given them thy word; and the world hath hated them, because they are not of the world, even as I am not of the world.”
Tạm dịch: “Và bây giờ tôi không còn ở trên thế giới nữa, nhưng những người này ở trên thế giới, và tôi đến với bạn. Lạy Cha Chí Thánh, xin gìn giữ nhân danh Cha những người Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. “Tôi đã hứa với họ; và thế gian ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như tôi không thuộc về thế gian.”
Nói ngắn gọn là một lời khuyên “To be in the world but not of the world”, có thể hiểu là “Sống trên thế gian này nhưng không thuộc về thế gian”
Còn trong Phật giáo thì có câu “Phật pháp bất ly thế gian, Không lìa thế gian mà có giác ngộ” đó mới thật là chân giác ngộ của Phật giáo.
Ở một khía cạnh nào đó sự sống là hữu hạn, nhưng cũng giống như cơ học cổ điển, chỉ đúng là phận Dụng. Còn ở khía cạnh lớn hơn, bao trùm không gian và thời gian, chúng ta đều bất tử và không thể “chết”. Khía cạnh này, mang lại không ít dũng khí cho con người khi sống, nhưng cũng là vấn đề của không ít tâm hồn yếu đuối chỉ mong muốn kết thúc gánh nặng sớm!
Ý kiến của bạn