Phật giáo Archives - Nghĩa NB Blog cá nhân của Nghĩa NB Wed, 25 Oct 2023 04:01:53 +0000 vi hourly 1 Kiến giải Trung quán luận – Phần Mở đầu https://nghianb.org/kien-giai-trung-quan-luan-phan-mo-dau-588/ https://nghianb.org/kien-giai-trung-quan-luan-phan-mo-dau-588/#respond Tue, 24 Oct 2023 10:14:23 +0000 https://nghianb.org/?p=588 Trong các tác phẩm Phật giáo 4 năm trở lại đây, tôi ấn tượng nhất và bị ảnh hưởng sâu sắc nhất về mặt trí tuệ với Bộ Trung quán luận của ngài Long Thọ. Không phải bởi trong đó tôi tìm thấy con đường giải thoát, không phải bởi nhìn thấy thần thông trongXem thêm

Bài viết Kiến giải Trung quán luận – Phần Mở đầu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Trong các tác phẩm Phật giáo 4 năm trở lại đây, tôi ấn tượng nhất và bị ảnh hưởng sâu sắc nhất về mặt trí tuệ với Bộ Trung quán luận của ngài Long Thọ. Không phải bởi trong đó tôi tìm thấy con đường giải thoát, không phải bởi nhìn thấy thần thông trong đó mà bởi đậm chất trí tuệ uyên thâm, tư duy phản biện sâu sắc tới tận cùng giới hạn của trí tuệ bình thường. Chỉ khi trí óc bị dồn tới đường cùng, thì một dạng trí tuệ hoàn toàn mới mới được phát sinh. Giống như câu “Nước tới tận cùng là thác đổ, người tới đường cùng người hồi sinh vậy”

Mūlamadhyamakakārikā

Tôi thì không phải 1 Phật tử đúng nghĩa như mọi người nghĩ, tôi chỉ là tục nhân bình thường, sống bình thường, làm công việc bình thường và có duyên tìm hiểu, thực hành Phật pháp từ hồi nhỏ, đâu đó khoảng 5-6 tuổi được tiếp cận với những giáo lý của nhà Phật như Tứ diệu đế. Sau đó khoảng 10 tuổi thực tập thiền theo phương pháp trong sách bách khoa toàn thư dạy, có lẽ là 1 phương pháp ngồi thiền theo yoga Ấn Độ nhưng cách quán thiền thì như bên Thiền Tông. Rồi sau đó cứ theo dòng thời gian, cuộc sống cá nhân, học tập, công việc, hôn nhân, gia đình… tất cả mọi trải nghiệm cứ cuốn theo với những góc nhìn đa dạng về cuộc sống, đào sâu vào cái nội tâm tâm hồn, cái bản ngã mà vốn dĩ được tôn sùng thái quá nhất là thời trước 30. Để bây giờ, khi đọc và ngộ ra được gì đó ở cái tầm như trình độ hiện có, tôi lại muốn chia sẻ cho chính tôi ngày sau này đọc và cho những bạn bè có chung những niềm quan tâm nhưng chưa có cơ duyên để tiếp cận và tìm hiểu sâu về tâm linh giống như cách tôi được chỉ dẫn.

Về Trung quán luận

Trung quán luận có tựa đề tiếng Phạn: Mūlamadhyamakakārikā; tựa đề tiếng Tạng là  dbu ma rtsa ba’i tshig le’u byas pa shes rab ches bya ba. Trong đó chữ Trung nghĩa là ở Giữa, thể hiện ý nghĩa sâu sắc của con đường Phật giáo là con đường ở giữa, không có vô cũng không có có, không có sắc cũng không có không sắc, không có già chết cũng không có không già chết… không có trên cũng chẳng có dưới, không có quá khứ – hiện tại – tương lai… Chúng ta luôn ở giữa tất cả những khái niệm mà chúng ta đặt ra, vì căn nghiệp này, chúng ta ở đây, và chúng ta thấy những thứ này. Đó là Phúc, hay là Họa, là Tốt hay là Xấu thì chẳng thế nghĩ bàn, chỉ có thể chấp nhận nó như là nó.

Bộ Trung quán luận không phải một học thuyết hoàn toàn mới của Phật giáo. Tương tự như các bộ luận khác trong kho tàng Phật giáo mà tôi từng tiếp cận, tôi thấy nó cũng giống y chang như cách mà các học giả vẫn thường nói rằng, đó chỉ là những cách diễn giải chi tiết những thứ cốt tủy mà Đức Thích Ca đã đi rao giảng khi còn tại thế. Cũng tương tự như cách mà Đức Phật thuyết giảng rằng “Pháp khả thuyết bất khả Pháp”, tức là Pháp nào mà có thể thuyết giảng được thì đó không phải là Pháp. Muốn hiểu Pháp phải tự mình chứng ngộ, tự mình trải nghiệm và tự mình giác ngộ. Mình phải tự gieo hạt giống và nuôi dưỡng hạt giống giác ngộ đó qua nhiều năm tháng, với nhiều nỗ lực thì hạt giống giác ngộ mới có thể thành cây giác ngộ và đơm hoa, kết quả.

Trung quán luận không đưa ra các câu chuyện về thần linh, về thần thông để người đọc trầm trồ tán thán Phật pháp. Trung quán luận, ngược lại chỉ sử dụng phương pháp tư duy logic thông thường, phép phân tích của Phật giáo và dựa trên nền tảng những gì Phật đã từng giảng nhằm mục đích giúp cho mọi người hiểu được sâu sắc, thuyết phục hoàn toàn bằng trí tuệ và bằng tư duy lý tính về những điều Phật giáo rao giảng. Đó là về thuyết nhân duyên, đó là về tính không, đó là về bản ngã, đó là về thời gian, về sự thay đổi….

Bộ Trung quán luận có 27 chương, để mà có thể hiểu được hết tất cả và thực sự thấm thía thì sẽ phải mất nhiều năm chuyên tâm học hỏi, suy ngẫm, hành thiện. Trong khả năng của mình, với những hiểu biết khiêm tốn, và sự thôi thúc cháy bỏng từ bên trong, tôi mong muốn có thể dành từ 1-2 năm để chia sẻ về ý nghĩa của từng chương trong 27 chương của bộ luận. Như tinh thần đã nói ở trên, chia sẻ cho chính tôi của những ngày sau và chia sẻ cho những người bạn hữu cùng mối quan tâm nhưng chưa đủ nhân duyên để tiếp cận Phật giáo cơ sở hoặc những điều tương tự.

Một điều lưu ý với các bạn bè của tôi, Phật giáo rất khác biệt so với các tôn giáo khác trên thế giới. Xét trên nhiều khía cạnh, Phật giáo thực chất là một môn triết học sâu sắc giúp giải thoát con người khỏi sinh tử, giải thoát khỏi nhà tù do chính tâm tạo tác. Phật giáo cũng là một tôn giáo mà tôi thấy gần gũi hơn cả với Tâm linh và thực tế là 1 con đường để phát triển tâm linh tốt nhất. Sự hiểu biết Phật giáo không chỉ dẫn dắt người ta tới sự hoàn thiện của bản thân từ bên trong tới bên ngoài, nó còn có thể dẫn dắt toàn thế giới sang một thời kỳ tiến hóa tâm linh mãnh liệt mới nếu nhất loạt cộng đồng đều biết tới, tin tưởng và thực hành đầy đủ những điều đúng đắn mà Phật giáo đã chia sẻ.

Bài viết này sẽ chỉ nói chung vậy thôi, hẹn mọi người trong 1 bài viết gần nhất cuối tháng 1 về chương đầu tiên của Trung quán luận.

long-tho

27 chương trong bộ Trung quán luận với 27 luận

  1. Quán nhân duyên(pratyayaparīkṣā)
  2. Quán khứ lai (gatāgataparīkṣā)
  3. Quán lục tình (cakṣurādīndriyaparīkṣā)
  4. Quán ngũ ấm (skandhaparīkṣā)
  5. Quán lục chủng (dhātuparīkṣā)
  6. Quán nhiễm nhiễm (rāgaraktaparīkṣā)
  7. Quán tam tướng (saṃskṛtaparīkṣā)
  8. Quán tác tác giả (karmakārakaparīkṣā)
  9. Quán bản trú (pūrvaparīkṣā)
  10. Quán nhiên khả nhiên (agnīndhanaparīkṣā)
  11. Quán bản tế (pūrvaparakoṭiparīkṣā)
  12. Quán khổ (duḥkhaparīkṣā)
  13. Quán hành (saṃskāraparīkṣā)
  14. Quán hợp (saṃsargaparīkṣā)
  15. Quán hữu vô (svabhāvaparīkṣā)
  16. Quán phọc giải (bandhanamokṣaparīkṣā)
  17. Quán nghiệp (karmaphalaparīkṣā)
  18. Quán pháp (ātmaparīkṣā)
  19. Quán thời (kālaparīkṣā)
  20. Quán nhân quả (sāmagrīparīkṣā)
  21. Quán thành hoại (saṃbhavavibhavaparīkṣā)
  22. Quán Như Lai (tathāgataparīkṣā)
  23. Quán điên đảo (viparyāsaparīkṣā)
  24. Quán tứ đế (āryasatyaparīkṣā)
  25. Quán niết-bàn (nirvāṇaparīkṣā)
  26. Quán thập nhị nhân duyên (dvādaśāṅgaparīkṣā)
  27. Quán tà kiến ( dṛṣṭiparīkṣā)

Nghianb 2023

Bài viết Kiến giải Trung quán luận – Phần Mở đầu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/kien-giai-trung-quan-luan-phan-mo-dau-588/feed/ 0 588
Hạnh phúc là gì – Chia sẻ từ những hiểu biết vụn vặt https://nghianb.org/hanh-phuc-la-gi-chia-se-tu-nhung-hieu-biet-vun-vat-452/ https://nghianb.org/hanh-phuc-la-gi-chia-se-tu-nhung-hieu-biet-vun-vat-452/#respond Wed, 21 Jun 2023 14:38:02 +0000 https://nghianb.org/?p=452 Có người từng nói với Đức Phật “Tôi muốn Hạnh phúc”. Đức Phật trả lời “Hãy bỏ đi chữ Tôi – đó là ngã, là ích kỷ, sau đó bỏ đi chữ Muốn – đó là tham” thì sẽ chỉ còn lại chữ Hạnh phúc. Chúng ta theo đuổi hạnh phúc, muốn hạnh phúc nhưngXem thêm

Bài viết Hạnh phúc là gì – Chia sẻ từ những hiểu biết vụn vặt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Có người từng nói với Đức Phật “Tôi muốn Hạnh phúc”. Đức Phật trả lời “Hãy bỏ đi chữ Tôi – đó là ngã, là ích kỷ, sau đó bỏ đi chữ Muốn – đó là tham” thì sẽ chỉ còn lại chữ Hạnh phúc. Chúng ta theo đuổi hạnh phúc, muốn hạnh phúc nhưng không thể định nghĩa Hạnh phúc là gì thì sự theo đuổi đó có khác nào giơ nắm đấm lên và đấm vào không trung để hi vọng sẽ làm đau luồng gió!

Quả đúng vậy, cuộc sống này là do chúng ta lựa chọn, hạnh phúc hay bất hạnh cũng là lựa chọn của mình mà thôi. Có những người đầy đủ về vật chất, được quan tâm bao bọc từ nhỏ tới lớn nhưng luôn miệng kêu chán nản, bất hạnh, bất mãn… Và cũng có người sinh ra không được may mắn, thiếu thốn đủ đường, nhưng luôn lạc quan và chia sẻ với những người khác. Vậy hóa ra, hạnh phúc không phải là do yếu tố bên ngoài, hạnh phúc là trạng thái xuất phát từ bên trong.

hanh-phuc-la-gi

Hạnh phúc là một hành trình, không phải đích đến

Có người nói Hạnh phúc không phải là đích đến, Hạnh phúc là một hành trình. Đó là bởi vì nếu coi Hạnh phúc là đích đến thì cũng không khác gì cố gắng đuổi bắt bằng được cái bóng của ánh trăng rọi trên mặt nước, chỉ cần chạm vào mặt nước thôi, bóng trăng đó đã tan biến rồi. Còn nếu Hạnh phúc là một hành trình và trên hành trình bước đi đó, mỗi bước chân đều an lạc và trọn vẹn trong từng giây phút, từng hơi thở thì chẳng có nỗi bất hạnh phúc xâm chiếm được thân tâm. Ở trên trần gian này, trong nhận thức chung của xã hội loài người, việc coi hạnh phúc là một Hành trình thực sự có tính ứng dụng cao hơn so với việc cố gắng định nghĩa Hạnh phúc là một đích đến để theo đuổi trong vô vọng hoặc lúc đầu hăm hở, sau thất vọng rồi dần buông xuôi!

Mở rộng quan niệm “Hạnh phúc là một hành trình” chúng ta lại có thể gợi nghĩ tới một câu nói “Không có một cuộc sống hoàn hảo, nhưng chúng ta có thể thêm vào trong cuộc sống của mình những khoảnh khắc hoàn hảo”. Đúng là vậy, nếu kết nối các điểm hành trên hành trình của chính cuộc đời mình, sẽ có rất nhiều khi chúng ta thấy, dù cuộc đời tổng thế có tồi tệ tới đâu, chúng ta vẫn có những giây phút thật hoàn hảo. Khoảnh khắc chúng ta nhận ra cuộc đời mình có giá trị với cuộc đời người khác chẳng hạn, đó là một khoảnh khắc hoàn hảo. Khoảnh khắc được nâng trên tay một đứa trẻ mới chào đời và biết răng đó là một đứa trẻ khỏe mạnh, thật hoàn hảo… Nhờ coi Hạnh phúc là một hành chính, cuộc theo đuổi hạnh phúc trở nên cởi mở hơn, dễ dàng hơn và có ý nghĩa hơn.

Chúng ta không thể đuổi được bóng đêm, chỉ có thể thắp lên ánh sáng

Ngày hôm trước, tôi vừa nói với vợ tôi một chuyện đùa vui mà nó là sự thật rất phổ biến trong xã hội loài người hiện nay đó là. Khi tôi bước chân từ một nơi không khí trong lành tới một nơi ám mùi hôi thối, thoạt đầu mùi đó gây khó chịu, thậm chí sây sẩm mặt mày, choáng váng. Thế nhưng khi buộc phải sống trong bầu không khí đó một thời gian, dài ngắn tùy người, chúng ta có xu hướng cho nó thành 1 phần “bình thường” của cuộc sống và mùi hôi thối đó bỗng dưng “biến mất” trong nhận thức của chúng ta. Kỳ thực, mùi hôi thôi đó vẫn còn nguyên vẹn, nhưng chính chúng ta đã “lãng quên” mất mùi hôi thối đó. Chúng ta nhìn con ếch trong 1 cái giếng và thấy thương cảm cho sự cầm tù của nó đang phải trải qua, nhưng nó có coi sự thương cảm đó là đáng giá đâu, thậm chí nó còn coi những kẻ đang tròng trọc nhìn vào nó một cách thương xót chẳng khác gì những kẻ lập dị.

Trong cuộc đời mình, tôi đã thấy có những cô gái ở bên những người đàn ông rất tồi tàn như kiểu sự nghiệp công danh không có, tài chính không có, sức khỏe không có nốt và hoàn toàn dựa dẫm vào người khác… đó là tồi tệ theo một cái nhìn khách quan từ ngoài vào. Cũng có những trường hợp tôi chứng kiến người đàn ông bạo hành với người phụ nữ, với con cái,… đó cũng là tồi tệ theo một cái nhìn xã hội rõ ràng… Thế nhưng…. Rất nhiều trong số đó, khi được khuyên từ bỏ môi trường đó nếu không thể làm nó tốt nên lại có một câu trả lời giống nhau “Nhưng mà anh ấy vẫn tốt mà…” Ồ, vậy điều gì là đúng ở đây? Liệu có phải giống như xu hướng liên quan tới Mùi mà tôi đã kể ở trên chăng, liệu có phải ở trong bóng tối quen rồi chỉ cần có 1 tia sáng họ đã coi là mặt trời bừng lên phía trước mắt?

Một cuộc sống hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta bao phủ chúng bởi những điều bất hạnh, những khó khăn, những tâm hồn tồi tệ, những thứ “bốc mùi”… Cũng giống như bóng tối vậy, chúng luôn tồn tại không bao giờ biến mất khỏi thế gian, không bao giờ biến mất khỏi chúng ta. Chúng ta không thể dùng lời nói, hành động, suy nghĩ để xua đuổi bóng tối, xua đuổi bất hạnh… với mong muốn bóng tối đi rồi, bất hạnh qua rồi sẽ là Ánh sáng, sẽ là Hạnh phúc. Điều chúng ta cần làm để có ánh sáng là mở những bức rèm đang che mất khung ra, mặt trời cứ thế vô tư chiếu rọi, nếu không thể mở rèm, hãy tìm tới nơi nào đó có sẵn ánh sáng mặt trời, vì ngay cả nơi đó, bóng tối vẫn tồn tại, chỉ là chúng không thể gây ra cảm giác bóng tối với bạn vì mặt trời đang ở đó rồi. Hạnh phúc cũng vậy, mở cửa tâm hồn, mở rộng đầu óc, đón nhận những cơ hội mới, làm cho mỗi giây phút tồn tại của mình trở nên ý nghĩa bằng cách tìm kiếm cách để giúp đỡ những người khác bằng năng lực của mình, càng nhiều người càng tốt.

Giúp đỡ người khác là cách thổi bùng lên ngọn lửa hạnh phúc nhưng nên giúp thế nào?

Tôi tin rằng chỉ có hành động giúp đỡ người khác mới mang lại những giây phút trọn vẹn, những khoảnh khắc hạnh phúc và đi trên con đường hạnh phúc. Nhưng nếu chỉ có lời khuyên như vậy thì thật là chung chung và khó thực hiện bởi vì, chắc chả ai không muốn giúp người khác. Sự khác biệt chỉ nằm ở hai yếu tố mà thôi:

Một là, khi giúp người khác, tôi có mất gì không? Ở một số người dù biết là mất nhưng họ vẫn giúp đỡ, ở một số người hễ giúp người khác là phải có “lại quả” ấy cũng là giúp nhưng cách đó, khó mà mang lại khoảnh khắc trọn vẹn. Điều thú vị là chúng ta chỉ có những khoảnh khắc trọn vẹn ở những hình thức có vẻ không trọn vẹn, ví dụ như cho đi mà không cần nhận lại – nghe có vẻ không trọn vẹn chút nào về hình thức, nhưng nên nhớ cuộc sống không phải chỉ nằm ở hình thức trong một thời điểm nào, mở rộng bức tranh sẽ thấy điều bất hợp lý đó lại hợp lý đến lạ.

Hai là, khi giúp đỡ người khác chúng ta cần phải “Biết mình Biết người”. Bạn nghĩ sao nếu bạn tự thấy mình chỉ có 10 đồng mà chỉ 1 người cần bạn giúp đã muốn tới 20 đồng của bạn? Bạn vẫn có thể đồng ý giúp người đó, chấp nhận mất luôn 10 đồng, sau đó lao động cật lực kiếm thêm 10 đồng và giúp họ. Nhưng, cũng với 10 đồng đó, tại sao không nghĩ xem chúng ta có thể giúp những người chỉ cần 1 đồng để giải quyết, ta có thể giúp tới tận gần 10 người như vậy…. Lựa sức làm, lựa sức giúp, hiểu thật rõ đối tượng mình sẽ giúp đỡ, đừng để cảm xúc trong ta trỗi dậy mạnh mẽ biến ta thành một con thiêu thân lao chồm vào ngọn lửa chỉ vì nghĩ rằng đó là hạnh phúc đích thực. Hạnh phúc đích thực không có chỗ cho những người hành động mù quáng, thiếu đi Trí tuệ.

Việc hình tượng hóa 10 đồng, 1 đồng trên kia chỉ có tính biểu tượng, trên thực tế nó có thể đại diện cho thời gian, trí lực, sức lực, tài lực… hoặc tổng hợp của tất cả mọi thứ.

Đúng vậy, muốn hạnh phúc phải giúp đỡ, muốn giúp đỡ phải nằm lòng hai điều trên và trả lời được 2 điều cơ bản nhất đó rồi hẵng thực hiện, lúc đầu sẽ khó khăn, nhưng sau này sẽ thành phản xạ và nó thật đơn giản khi đã thành thục.

Hạnh phúc với tôi, đó là sự cho đi

Cho đi theo nghĩa của Phật dạy là sự Bố thí, chữ này hay bị hiểu sai liên quan tới lòng thương hại, kỳ thực Bố thí đơn giản là cho đi, và khi nào ta không còn thấy người cho, người được cho và thứ cho, đó là khi giác ngộ, ấy là sách dạy thế, tôi thì chưa giác ngộ nên vẫn lông lá hiểu đơn giản theo cách Bố thí có 3 dạng: một là Tài thí – Cho đi vật chất, Pháp đi – Cho đi bài học đúng đắn, Vô úy thí – Cho đi sự không sợ hãi. Đâu đó, cả ba thứ trên tôi đều cố gắng cho đi thường xuyên thông qua 3 cuộc đời.

Thay vì liên tục kiếm tìm những giải pháp cho các tình thế, tôi lựa chọn một hướng đi cho bản thân mình với ba cuộc đời trong một: 1 cuộc đời của một người làm sản phẩm chăm sóc sức khỏe, 1 cuộc đời người đàn ông của gia đình, 1 cuộc đời của kẻ tu trong đời.

Cuộc đời của một người làm sản phẩm chăm sóc sức khỏe.

Không có gì mang lại niềm hân hoan cho tôi hơn việc tôi vừa có thể làm nghề, vừa nuôi thân, lại vừa có thể tu trong cái nghề của mình. Điều đó, có thể gọi như combo All in One vì khi kết nối các điểm chạm trong cuộc sống của mình từ khi sinh ra (thực tế tôi chỉ nhớ được từ lúc tôi tập nói đâu đó quanh 1 tuổi, chứ thời khắc chui ra khỏi bụng mẹ thì tôi chịu), tới khi đi học, lần đầu biết khóc vì cô đơn (khoảng lớp 3), lần đầu đọc về các vị tướng cùng với phương pháp tọa thiền (từ năm 11 tuổi), tới khi chuyển trường học thêm về vật lý, lên cấp 3 học chuyên lý, đại học về Dược, ra trường làm công việc như nhân viên trong một công ty về thảo dược Việt Nam, sau đó lang thang tới những nơi khác hâm mộ Steve Job… Tất cả đều đưa tôi tới đúng nơi tôi đang ở đây: tìm mọi cách để làm các sản phẩm có chất lượng tốt nhất từ Việt Nam, bằng cách áp dụng kiến thức kỹ thuật, khả năng thấu hiểu nỗi đau, vận dụng hiểu biết sẵn có về Phật học… nhằm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Thật tuyệt là mỗi sản phẩm, dòng sản phẩm, thương hiệu đưa ra đều có triết lý riêng của nó, đều là sự cân đo đong đếm và nỗ lực của nhiều con người có tâm cùng thực hiện. Điều tuyệt vời hơn là nó luôn đi kèm với slogan Tiên phong chăm sóc của Innocare.

Cuộc đời một người đàn ông của gia đình

Cái gì chưa có, phải tạo dựng, muốn nó bền vững phải đào móng cho nó, và có một bản thiết kế trước khi bắt tay tạo dựng. Cuộc sống này do chúng ta kiến thiết, gia đình cũng vậy. Bản thân tôi không phải một người có gia đình tròn trịa như nhiều người khác, nhưng tôi hiểu rằng, mình học được từ đó. Mất đi một điều gì đó để hiểu được ý nghĩa thực sự của nó, giá trị đích thực của nó. Tôi từng tin rằng mình đủ bản lĩnh và kỹ năng để sống vậy, không cần tới bất kỳ ai, tôi vẫn có thể cống hiến đời mình cho công việc, cho sự nghiệp, cho từ thiện, cho cộng đồng… Thế nhưng tôi đã nhầm, tôi là người đàn ông với hướng về gia đình. Gia đình nhỏ là vợ con, gia đình lớn là dòng họ, gia đình lớn hơn là anh em chiến hữu… Tất cả network đều cần được chăm sóc, nâng niu. Trong bài phỏng vấn mới nhất với anh chị bên báo, tôi cũng trả lời câu hỏi “Có điều gì đó chưa làm được mà anh muốn làm nhất trong thời gian tới?” rằng “Tôi không phải là người có gia đình trọn vẹn vì bản thân mình chưa làm tốt vai trò của người đàn ông trong gia đình, thời gian tới tôi muốn dành thêm thời gian cho gia đình”

Cuộc đời của một kẻ tu trong đời

Tôi được may mắn tiếp xúc với Phật giáo theo cách trần trụi từ sớm, khi nhỏ lang thang chùa chiền mà là tự tôi thấy thích thú ở đó chứ không phải bố mẹ gửi lên, không phải ai rủ rê cả. Rồi 11 tuổi bắt đầu cầm trên tay cuốn sách Những nền văn minh thế giới, vô tình mở tới những trang sách về Phật giáo, về thiền, cứ thế thực hành rất kỷ luật, nghiêm ngặt, vô tình lại luôn quay về hướng Tây và chỉ thực hành khung giờ từ 5-6h chiều vì đó là giờ không phải học, và cũng chưa phải nấu cơm, do xưa bố mẹ đi làm về muộn, không cần nấu cơm sớm quá. Mà thật may là hồi đó tôi xin bố mẹ cho đi đá bóng, tập võ thì đều không được, vì anh tôi đi rồi, tôi phải ở nhà nấu cơm. Sau này, cũng có người hét vào mặt tôi khi tôi làm điều có lỗi “Anh đọc lắm sách Phật vào rồi sống như thế à?”.

Vâng, tôi đọc lắm lắm, đọc như chết đói vậy, rồi khi tôi làm sai, mọi người sẽ thường có câu nói như vậy, cũng phải! Giá như không đọc, không học và không nói thì chắc cũng chẳng ai hét vào mình câu đó… Sau này, đi làm tôi cũng không kiên trì cho lắm, nhưng chả ai dạy tôi cả. Quý báu lắm, tôi nhận được dăm ba lời chê bai của các sếp cũ, trong đó có người là cậu họ tôi, năm 2013 cậu chê tôi “Tao đã bảo thủ rồi mà tao thấy cháu còn bảo thủ hơn cả tao. Tuổi trẻ mà đã bảo thủ thế thì sau này khó làm việc lắm cháu”. Lúc đó tôi không hiểu, nhưng sau này tôi hoàn toàn thấu hiểu những thứ tốt đẹp như những lời dạy bảo chân thành đó, và hẳn phải rất yêu quý, thân thiết người ta mới góp ý thẳn thắn vậy với mình. Đến giờ quả thực, tôi nhớ tới những lời chê bai là chính, lời khen, gần như không nhớ mấy!

Tu trong đời là khó nhất vì Danh, Lợi, Tình luẩn quẩn chẳng xa, vậy nên lựa chọn con đường này sẽ chẳng bao giờ hết sóng gió. Chuẩn bị cho mình tâm thế tốt để đón sóng chứ không chờ sóng đến mới lo đối phó. Chuẩn chỉ trong từng sản phẩm, chuẩn chỉ trong từng hoạt động của doanh nghiệp, chuẩn chỉ trong từng việc dù nhỏ nhất để rèn luyện tâm mình, không để Danh – Lợi – Tình cuốn đi như lời của một người Cô đã nhắc tôi không dưới 3 lần.

Giống như lời dẫn của chương trình Hạnh phúc là gì trên VTV3 chúng ta phải tự viết lên câu chuyện của đời mình, Hạnh phúc phải tự mình tạo dựng, từ bên trong mình, theo cách của mình!

Bài viết Hạnh phúc là gì – Chia sẻ từ những hiểu biết vụn vặt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/hanh-phuc-la-gi-chia-se-tu-nhung-hieu-biet-vun-vat-452/feed/ 0 452
CHỮ TÂM TRONG KINH DOANH – GÓC NHÌN TỪ MỘT DOANH NGHIỆP https://nghianb.org/chu-tam-trong-kinh-doanh-goc-nhin-tu-mot-doanh-nghiep-402/ https://nghianb.org/chu-tam-trong-kinh-doanh-goc-nhin-tu-mot-doanh-nghiep-402/#respond Sun, 19 Feb 2023 03:54:17 +0000 https://nghianb.org/?p=402 Là giám đốc một doanh nghiệp chuyên kinh doanh các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp trong gia đình. Là một Phật tử, con ý thức được rằng việc kinh doanh không phải là giành giật, vun vén lợi ích cho cá nhân (tư lợi) mà điều quan trọng là phải tạo raXem thêm

Bài viết CHỮ TÂM TRONG KINH DOANH – GÓC NHÌN TỪ MỘT DOANH NGHIỆP đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Là giám đốc một doanh nghiệp chuyên kinh doanh các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp trong gia đình. Là một Phật tử, con ý thức được rằng việc kinh doanh không phải là giành giật, vun vén lợi ích cho cá nhân (tư lợi) mà điều quan trọng là phải tạo ra lợi ích cho toàn thể cộng đồng (tha lợi). Doanh nghiệp con ngoài việc luôn nỗ lực tuân thủ quy định pháp luật, đóng thuế đầy đủ, thanh toán đầy đủ công nợ đối tác, trả lương đầy đủ cho nhân viên… thì cả cá nhân và doanh nghiệp con vẫn luôn ý thức thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn.

Tuy nhiên, khi kinh doanh trên thị trường hiện nay, khi mà mọi hoạt động kinh doanh đều có sự cạnh tranh khốc liệt giữa nhiều sản phẩm cạnh tranh cả trong và ngoài nước. Trong đó không ít các doanh nghiệp cạnh tranh chủ yếu bằng các chiêu trò như giảm chất lượng, giảm giá thành và tăng chiết khấu, tăng cường khuyến mại, quảng cáo… gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Bản thân doanh nghiệp con không làm các điều đó và gặp vô cùng nhiều trở ngại để có thể tồn tại, chưa nói tới việc tạo ra lợi nhuận để làm giàu. Nhiều lúc, công ty chúng con cũng phải đưa ra các chương trình khuyến mại, các chính sách để lấy lòng người tiêu dùng, đối tác phân phối… nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhiều khi cũng phải chậm nộp thuế vì không đủ tiền mặt do khách hàng nợ không trả.

Nhiều lúc bản thân con cũng cảm thấy chán nản và tự hỏi liệu mình có đang làm đúng đắn hay không, liệu việc kinh doanh có nên “chộp giật” để tích lũy trước sau đó mới kinh doanh bền vững hay không, và liệu trong kinh doanh có thể từ bi không? Làm sao để giữ được tâm trong sáng, lòng từ bi của một Phật tử à vẫn có thể thành công trong công việc kinh doanh, hạnh phúc trong cuộc sống cá nhân.

chu-tam-trong-kinh-doanh

Sau đây là một số suy nghĩ trả lời cho câu hỏi của chính mình.

Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, chăm sóc gia đình cho cộng đồng chúng sinh… là một cơ hội tuyệt vời để xây dựng tài sản to lớn là công đức. Nếu như một người bác sỹ có thể chữa bệnh cho một số bệnh nhân mỗi ngày, một doanh nghiệp dược khi nghiên cứu được sản phẩm thực sự tốt sẽ nắm trong tay cơ hội giúp ích cho hàng triệu người mỗi năm. Khi sản phẩm, dịch vụ thật sự tốt, nó không chỉ mang lại lợi lạc về sức khỏe thể chất, tinh thần cho cộng đồng, nó còn mở ra cơ hội kinh doanh, làm giàu cho nhiều người khác trong hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là công đức và cũng là lợi lạc vô cùng to lớn, có khả năng phát triển rộng khắp, bền vững. Thậm chí, nếu được tổ chức tốt và có định hướng kinh doanh rõ ràng, có giá trị cốt lõi… thì thương hiệu doanh nghiệp có thể trở nên bất tử.

Nếu doanh nghiệp đã có nỗ lực định hướng với tâm chân thành bất hoại như kim cương thì chủ doanh nghiệp và nhân viên chớ nên nghi ngại, chớ nên nản lòng khi sự kinh doanh bất toại trong những khoảng thời gian nhất định trong cuộc kinh doanh trên chốn thương trường hiện tại.

Để trả lời thắc mắc trên đây, cá nhân tôi có những ý kiến sau bàn về Chữ Tâm trong kinh doanh, dựa trên tham khảo về bài viết Chữ Tâm trong kinh doanh trên website thuvienhoasen.

Bàn về chữ Tâm trong kinh doanh

Chữ Tâm trong kinh doanh luận bàn chủ yếu về đạo đức kinh doanh và một phần về phương diện phương tiện để giữ Tâm trong sáng trong kinh doanh. Cũng tương tự như Đức Phật giảng về Tứ Diệu Đế trong đó có:

  • Khổ đế: bản chất cuộc sống là KHỔ
  • Tập đế: tập hợp các nguyên nhân gây ra nỗi khổ từ Tam độc (Tham lam, Sân hận, Si mê)
  • Diệt đế: để chấm dứt sự Khổ cần phải tiêu diệt các nguyên nhân gây ra sự khổ, cắt đứt 3 vòi bạch tuộc Tham, Sân, Si.
  • Đạo đế: chỉ ra 8 con đường giải thoát (bát chánh đạo)

Tôi vẫn nhớ có người chủ doanh nghiệp, cũng là sếp cũ của tôi, một Phật tử từng nói với tôi rằng “Cháu có làm gì cũng có thể thành công, nhưng hãy nhớ tránh xa Danh – Lợi – Tình”. Cũng giống như việc tránh xa tam độc và tiến tới 8 con đường của chánh pháp.

Quay về vấn đề trong kinh doanh, Tâm trong sáng không thể xây dựng trên một mục đích bất thiện. Nếu một doanh nghiệp được khởi tâm xây dựng dựa trên việc thuần túy kiếm tiền làm giàu cho bản thân, thì ngay từ mục đích của nó đã sai. Tôi không nghĩ rằng doanh nghiệp như vậy sẽ không thể trở nên giàu có, tuy nhiên, tôi tin rằng, những doanh nghiệp đó sẽ khó lòng bền vững. Dù sao, lâu đài trên cát không thể vững trãi bằng lâu đài xây dựng từ gạch, đá với móng nền chắc chắn. Như vậy, chữ Tâm trong kinh doanh phải bắt đầu với việc xây dựng một doanh nghiệp với mục đích mang lại lợi lạc cho cộng đồng cho những người khác – Tha lợi chứ không phải thuần túy Tư lợi. Đây là nền tảng của mọi chữ Tâm trong kinh doanh.

Nếu doanh nghiệp xây dựng với mục đích Tha lợi, doanh nghiệp đó sẽ không thể tìm mọi phương pháp phạm pháp để đạt mục đích kinh doanh. Bản chất kinh doanh là tạo dựng giá trị, không phải để kiếm tiền. Tiền xây dựng trên Giá trị chứ không phải Giá trị xây dựng trên Tiền.

Học thuyết duyên khởi của Phật giáo nói về những thứ hiện hữu hiện tại được hình thành và phát sinh bởi vì những nguyên nhân trước đó. Tập hợp đầy đủ các nguyên nhân (nhân duyên) để hình thành nên kết quả của thực tại. Nếu trong số các nhân duyên đã hình thành có sự bất thiện thì kết quả làm sao thiện, bất thiện thì không bền vững giống như bóng tối vậy, chỉ cần có chút ánh sáng mặt trời chiếu tối, bóng tối biến mất không một dấu vết.

Khi doanh nghiệp kinh doanh dựa trên lợi lạc cộng đồng, sản phẩm được chăm chút để mang lại tối đa lợi ích cho người tiêu dùng thì chi phí thường phát triển sản phẩm thường sẽ cao hơn những sản phẩm tập trung vào mục đích tăng cường lợi nhuận bằng các chiêu trò trong kinh doanh. Sự cạnh tranh trong bối cảnh tự do thương mại, cơ chế thị trường dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp đưa ra các sản phẩm tương tự nhau. Điều này cuối cùng có mặt tích cực đối với người dùng so với tình trạng hàng hóa khan hiếm, độc quyền, đó là người dùng có thêm lựa chọn phù hợp với từng tình trạng bệnh tật, tùy tình trạng nhu cầu, tùy vào túi tiền của người tiêu dùng. Nôm na, người tiêu dùng có khả năng bỏ ra một số tiền ít hơn mà vẫn có thể dùng được giá trị cao hơn so với trước đây. Tuy nhiên, chỉ là có thể, nếu lựa chọn đúng những sản phẩm có giá trị!

Những doanh nghiệp kinh doanh với chữ Tâm thì không nên xem các sản phẩm tương tự trên thị trường là đối thủ, là kẻ thù hay mối đe dọa. Các doanh nghiệp với Tâm trong sáng trong kinh doanh cần nhìn nhận sự đa dạng này giống như một cuộc cạnh tranh về chất, thay vì chạy theo lượng. Vì sự nghiệp kinh doanh của các doanh nghiệp với chữ Tâm là sự nghiệp Tận tụy phụng sự cộng đồng nên sự cạnh tranh này nên quy về cuộc chạy đua về Tối ưu hóa: làm ra sản phẩm tốt nhất với chi phí thấp nhất và làm việc chăm chỉ nhất để đưa sản phẩm tốt tới người dùng một cách tiện lợi nhất. Công đức này là thứ cúng dường cho Tam Bảo không gì quý bằng.

Hiểu theo cách này, chữ Tâm trong kinh doanh cần nhìn nhận đúng đắn. Đó là, việc kinh doanh có thể áp dụng mọi phương pháp kinh doanh hợp pháp để hướng tới mang lại lợi lạc tối đa cho cộng đồng. Tuân thủ pháp luật, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình chế biến sản phẩm, chăm sóc khách hàng thường xuyên và hướng dẫn đầy đủ. Và hoàn toàn không có gì sai, nếu việc PR, quảng cáo sản phẩm mà đó là một sản phẩm tốt, nội dung quảng cáo không gây hiểu lầm phóng đại tác dụng của sản phẩm, nhất là các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, bảo vệ gia đình!

Chân thật là đạo đức trong kinh doanh

Đạo đức trong kinh doanh theo Phật giáo bao gồm: không lừa dối, không thổi phồng giá trị trong quảng cáo, chân thành với những cam kết. Phương pháp “câu cá nơi có cá” mà bất chấp luật lệ câu có thể mang lại những lợi nhuận to lướn trước mắt, tuy nhiên, phương pháp này sẽ dẫn đến các hậu quả khó lường. Chân thật là cách tốt nhất để giữ hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng và khách hàng tiềm năng.

Trước khi kinh doanh bất cứ sản phẩm nào, người làm kinh doanh cần phải trả lời được câu hỏi “Liệu mình có thể mang lại sản phẩm vượt trội cho người tiêu dùng. Liệu doanh nghiệp mình có mang lại được giá trị độc nhất cho cộng đồng? Trong cả 1 bức tranh tổng thể của thị trường lành mạnh, doanh nghiệp có thể trở thành 1 miếng ghép phù hợp hay không?” Nếu chúng ta có thể trả lời được tất cả những câu hỏi trên, hãy mạnh dạn dấn thân để kinh doanh theo từng bước khẳng định vị trí của doanh nghiệp.

chu-tam

Đối với những doanh nghiệp kinh doanh bằng các chiêu trò giành giật khách hàng, xây dựng quan hệ để cung ứng các sản phẩm kém chất lượng ra thị trường… thổi phồng công dụng của sản phẩm để gây hiểu lầm cho người tiêu dùng… Sớm hay muộn, những doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với sự thải trừ của cộng đồng người tiêu dùng, khi mà hiểu biết của người tiêu dùng ngày càng tăng lên và thị trường ngày càng trở nên lành mạnh hóa hơn.

Hiện nay, có nhiều cơ chế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thương hiệu, các nhãn hàng tốt bằng việc đăng ký bản quyền, đăng ký tác quyền, kiểu dáng công nghiệp, hoặc đăng ký các phát minh, sáng chế… Bằng cách này, những doanh nghiệp có các sản phẩm tốt, có các phát minh, sáng chế… có thể được bảo vệ khỏi sự xâm phạm, sao chép, giả mão nhãn hàng. Nhờ đó, duy giúp doanh nghiệp làm việc có Tâm trở nên yên tâm hơn trong quá trình kinh doanh. Tâm từ bi của các cá nhân kinh doanh phải đi kèm với một trí tuệ kinh doanh và am hiểu về môi trường kinh doanh. Nếu tâm từ bi không đi kèm với một trí tuệ kinh doanh tốt thì công việc kinh doanh cũng dễ dàng rơi vào tình trạng “chưa kịp lớn đã bị đổ”.

Chữ Tâm trong kinh doanh đi kèm với việc xây dựng giá trị

Trọng tâm của việc phát triển kinh doanh nên được hiểu theo cách tập trung vào việc xây dựng giá trị, tạo dựng giá trị tốt và vun đắp giá trị đó để mang lại lợi ích tối đa cho cộng đồng. Thay vì bị thị trường cuốn theo các chiêu trò tiếp thị, cuốn theo nhịp điệu giảm giá, khuyến mại ảo… công ty cần tập trung nguồn lực tối đa cho việc cải tiến các sản phẩm, cải tiến các dịch vụ chăm sóc khách hàng để sản phẩm mang lại giá trị tối đa cho nhu cầu của người dùng. Các sản phẩm về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cần sự đầu tư nguồn lực cho phát triển sản phẩm lớn hơn hẳn so với các lĩnh vực khác, vì nó liên quan trực tiếp tới sức khỏe con người. Ngoài việc nghiên cứu sản phẩm có hiệu quả cao, người làm kinh doanh còn phải chú ý phương diện an toàn của sản phẩm.

Khi sản phẩm đã hiệu quả và an toàn thì doanh nghiệp phải phát triển để làm chủ công nghệ, nguyên liệu, thay vì phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp, việc chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào có chất lượng cao không chỉ có ý nghĩa giúp việc cải tiến chất lượng sản phẩm được hiệu quả hơn, nó còn có ý nghĩa to lớn giúp tối ưu hóa giá thành sản phẩm và góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia thông gia việc đóng góp vào công nghệ kỹ thuật nội địa. Việc này thể hiện được không chỉ chữ Tâm trong kinh doanh mà còn là Tầm vóc của doanh nghiệp và người chủ doanh nghiệp. Đó là cách nâng cao giá trị của toàn bộ thương hiệu quốc gia chứ không còn đơn thuần xây dựng giá trị sản phẩm thông thường.

Đối với các nhà quản lý có Tâm, cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi, cơ chế kích thích để phát triển nhiều doanh nghiệp có khả năng bồi đắp giá trị thương hiệu quốc gia như trên. Bởi vì, điều này không chỉ có lợi cho 1 doanh nghiệp kể trên, nó có thể giúp nâng giá trị của cả một đất nước, từ đó nâng cao giá trị đóng góp của quốc gia đó trên trường quốc tế.

Vậy, những cây hỏi phải đặt ra trong quá trình phát triển chữ Tâm thông qua việc tạo dựng, bồi đắp giá trị có thể là “Giá trị cốt lõi của doanh nghiệp là gì? Doanh nghiệp có thể tạo dựng giá trị gì cho người tiêu dùng? Sản phẩm của doanh nghiệp có thể giúp ích gì cho người tiêu dùng? Liệu sản phẩm này có thể tối ưu được hơn nữa giúp nâng cao giá trị và giảm giá thành hay không? Các sản phẩm này, công nghệ này có thể góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia hay không?”

Ứng dụng Đạo Phật để giữ chữ Tâm trong kinh doanh

Phật giáo khuyến khích các chủ doanh nghiệp kinh doanh mang lại lợi lạc cho xã hội, đóng góp vào sự phát triển của loài người. Người Phật tử khi kinh doanh cần phải đi bằng hai chân 1 chân bên Đạo, một chân bên Đời. Thấu hiểu các giáo lý của nhà Phật, các phương pháp tu tập của Phật giáo… ứng dụng trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ việc phát triển sản phẩm, bán hàng, marketing… sẽ giúp doanh nghiệp không chỉ có cơ hội phát triển mà còn giúp doanh nghiệp trở nên trường tồn, góp phần vào một thị trường kinh doanh lành mạnh để phụng sự xã hội được lâu dài.

Mỗi khi làm một việc gì đó phục vụ cho kinh doanh, người chủ doanh nghiệp cần hiểu rõ về động cơ của hành động đó để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn. Luôn ghi nhớ về những điều được học trong thuyết Duyên Khởi để đánh giá xem những nhân duyên gì dẫn tới kết quả hiện tại và có thể làm gì để có những kết quả tốt hơn. Tâm từ bi được khởi lên cần phải vững vàng như kim cương bất hoại, dù những khó khăn trắc trở có thể tới trong suốt quá trình kinh doanh. Nếu đã khởi sự từ những nhân duyên tốt lành, điều còn lại phải làm của chủ doanh nghiệp là kiên trì tạo ra những giá trị tốt đẹp, mang lợi lạc cho cộng đồng chứ không phải liên tục bị danh – lợi – tình, các chiêu trò PR, truyền thông kéo đi. Học phương pháp Marketing dựa trên giá trị thay vì dựa trên khuyến mại.

bat-chanh-dao
Bát chánh đạo tương sinh tương tức

Phật giáo dạy chúng ta bát chánh đạo là 8 con đường giải thoát, đây cũng là một trong những nguồn tham khảo giá trị to lớn với bất kể doanh nghiệp nào muốn giữ chữ Tâm trong kinh doanh. 8 con đường giải thoát (bát chánh đạo) đó là:

  • Chánh kiến
  • Chánh tư duy
  • Chánh ngữ
  • Chánh nghiệp
  • Chánh mạng
  • Chánh tinh tấn
  • Chánh niệm
  • Chánh định

Để bàn sâu vào việc áp dụng Bát chánh đạo trong nghiệp kinh doanh nhằm giữ chữ Tâm trong kinh doanh, chúng ta sẽ cùng chia sẻ trong một cơ duyên khác. Và điều này cần có sự chuẩn bị kỹ càng của cả người viết và những người hữu duyên về sự am hiểu nhất định trong Phật giáo cơ bản cũng như những tư duy kinh doanh cơ bản.

Hà Nội, 19/2/2023

Bài viết CHỮ TÂM TRONG KINH DOANH – GÓC NHÌN TỪ MỘT DOANH NGHIỆP đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/chu-tam-trong-kinh-doanh-goc-nhin-tu-mot-doanh-nghiep-402/feed/ 0 402
Bồ tát có bệnh không? https://nghianb.org/bo-tat-co-benh-khong-317/ https://nghianb.org/bo-tat-co-benh-khong-317/#respond Thu, 10 Mar 2022 14:19:37 +0000 https://nghianb.org/?p=317 Người Việt chúng ta hễ nghe tới danh xưng Bồ Tát là thấy to lớn, thần thông lắm. Mặc nhiên hiện lên là hình ảnh một người mặc áo trắng, một tay cầm cành dương liễu, một tay cầm bình nước cam lồ. Quả nhiên, vị đó là hình ảnh Bồ Tát Quán Thế ÂmXem thêm

Bài viết Bồ tát có bệnh không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Người Việt chúng ta hễ nghe tới danh xưng Bồ Tát là thấy to lớn, thần thông lắm. Mặc nhiên hiện lên là hình ảnh một người mặc áo trắng, một tay cầm cành dương liễu, một tay cầm bình nước cam lồ. Quả nhiên, vị đó là hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm trong hình tượng dựng bên từ truyền thống Phật giáo Đại thừa. Hình ảnh đó đi vào trong tâm trí nhiều thế hệ người Việt Nam bây giờ qua bộ phim Tây Du Ký của Trung Quốc chứ lại không phải đi vào đầu tiên trong kinh sách hay lời giảng của nhà chùa.

Với hình ảnh được tạo dựng như trong bộ phim nói trên thì đúng là Bồ Tát có nhiều phép thần thông biến hóa, có vẻ như không gì có thể khiến Bồ Tát mắc bệnh hoặc nếu có thì đơn giản lắm, chỉ cần dùng nước Cam lồ là trị được bệnh ngay.

Những bộ phim như trên, vô hình chung đã làm cho nhận thức về những hình ảnh Bồ Tát, Như Lai, bỗng trợ nên bị sai lệch và cần phải điều chỉnh lại cho các thế hệ tiếp theo, nếu chúng ta muốn tôn giáo đặc biệt là Phật giáo trở nên thực sự thuần khiết ở Việt Nam và trên toàn thế giới.

Trong bài này, tôi trích dẫn một phần trong Kinh Duy Ma Cật để nói về Bệnh của Bồ Tát.

Phẩm Văn Thù Sư Lợi

Thăm bệnh

Bấy giờ Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Vị thượng nhân ấy khó bề đối đáp. Ông ấy thâm đạt thật tướng, khéo nói pháp yếu, biện tài không trệ, trí huệ vô ngại, biết hết mọi chỗ làm của chư Bồ tát, vào hết tạng bí mật của chư Phật, chiến thắng các ma, du hý thần thông, trí huệ và phương tiện đều vẹn toàn. Tuy nhiên, con xin vâng theo thánh ý của Phật mà đến thăm bệnh ông.”

Lúc ấy trong chúng, các Bồ tát, đại Đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương… đều nghĩ rằng: “Nay hai đại sĩ Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật đàm luận với nhau, ắt nói diệu pháp.”

Tức thì tám ngàn Bồ tát, năm trăm Thanh Văn và trăm ngàn trời người đều đi theo. Lúc đó Văn Thù Sư Lợi, với sự cung kính vây quanh của các vị Bồ tát, các đại đệ tử cùng các trời người, đi vào thành lớn Tỳ Da Ly.

Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật nghĩ rằng: “Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng sẽ đến đây.” Liền dùng thần lực làm cho nhà mình trống không, không có vật gì cũng không có người hầu, chỉ để lại một cái giường cho ông nằm bệnh.

Thị hiện bệnh là để chỉ tình trạng hiện thời của sanh tử. Làm cho nhà trống không chỉ để Tâm Không hay Pháp giới Không vậy. Trong pháp giới không này, hẳn bệnh chỉ là cái giả mà thôi vậy.

Ngài Văn Thù Sư Lợi vào nhà, thấy phòng trống không, không có gì cả, chỉ độc một giường nằm. Bây giờ, Duy Ma Cật nói: “Quý hóa thay, ngài Văn Thù Sư Lợi! Tướng không đến mà đến, tướng không hiện mà hiện, tướng không thấy mà thấy.”

Tướng không đến, tướng không hiện, và tướng không thấy là thật tướng Pháp thân của ngài Văn Thù Sư Lợi và cũng của ngài Duy Ma Cật. Chẳng lìa thật tướng ấy mà đến, mà hiện, mà thấy, mà đi đứng nói năng thì ở nơi sanh tử bệnh khổ có đến có đi, có được có mất, có nói có nín… này, liền hết bệnh, vì những thứ ấy chỉ là thị hiện như huyễn từ nguồn thật tướng. Hãy nhìn tất cả mọi sự “không đến mà đến, không hiện mà hiện, không thấy mà thấy” bèn thấy ra thật tướng Pháp thân.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Như vậy, cư sĩ. Nếu có đến, rốt ráo là chẳng đến. Nếu có đi, rốt ráo là chẳng đi. Tại sao thế? Đến, không từ đâu đến; đi, không đến nơi đâu, cái có thể thấy(cái hiện ra), rốt ráo là chẳng thể thấy.

Trong thật tướng, trong thực tại hiện giờ, dù có đến, có đi, quan sát kỹ lại, chẳng thể nào có tướng đến tướng đi. Rốt ráo là chẳng đến, rốt ráo là chẳng đi, đó chính là đạo tràng chẳng động, bèn ngay đó mà hết bệnh, ngay đó mà giải thoát. Cái có thể thấy hay cái hiện ra, rốt ráo là chẳng thể thấy vì không có tướng, đó là thấy tánh: “thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”(Kinh Kim Ciiơng).

Ở đây, chúng ta thấy con đường Bồ tát là sự kết hợp nhuần nhuyễn hai chân lý: chân lý quy ước hay thế đế, hay Sự (có đến, có đi, có xuất hiện, có thấy) và chân lý tuyệt đối, hay chân đế, hay Lý (không đến, không đi, không xuất hiện, không thể thấy). Có làm gì trong thế giới quy ước mà không lìa rời khỏi chân lý tối hậu, thế giới quy ước chưa từng tách lìa khỏi “thế giới” tuyệt đối, đó là thị hiện bệnh sanh tử mà thật chưa từng có bệnh vậy.

“Nhưng hãy gác việc ấy lại. Bệnh cửa cư sĩ có thể chịu được chăng? Điều trị có bớt mà không thêm chăng? Thế Tôn ân cần hỏi thăm rất nhiều — ngài có ít phiền hà, ít không thoải mái, ít đau ốm, sự khôn khó của ngài có nhẹ, ngài có được chăm sóc, được thong dong, không tự trách móc, và ngài có đang sống tiếp xúc với hạnh phúc tối thượng không? Thưa cư sĩ, bệnh của ngài do đâu mà khởi? Sanh đã bao lâu, làm sao mà diệt?”

Duy Ma Cật nói: “Từ vô minh và khát ái, bệnh tôi bèn sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh được hết bệnh, thì bệnh tôi diệt. Tại sao như thế? Bồ tát vì chúng sanh mà vào sanh tử, có sanh tử thời có bệnh. Nếu chúng sanh lìa thoát khỏi bệnh, ắt Bồ tát không còn bệnh nữa. Ví như vị trưởng giả chỉ có một đứa con, đứa con ấy bệnh, cha mẹ cũng bệnh. Nếu con lành bệnh, cha mẹ cũng lành. Bồ tát cũng vậy, thương yêu tất cả chúng sanh như thể mỗi chúng sanh là đứa con độc nhất của mình. Chúng sanh bệnh thì Bồ tát bệnh. Chúng sanh lành bệnh, Bồ tát cũng lành bệnh. Ngài lại hỏi bệnh ây nhân đâu mà khởi? Bệnh của Bồ tát là do đại bi mà khởi.”

Có thể định nghĩa Bồ tát là người đã thấu đạt phần nào thật tướng không sanh không diệt, nên dầu có bệnh sanh khởi nơi Bồ tát, thì vị ấy vẫn “được chăm sóc, thong dong, không tự trách móc”, bởi vì, “vẫn đang sống tiếp xúc với hạnh phúc tối thượng”.

Nhưng bệnh nói chung do đâu mà khởi? Từ vô minh và khát ái, nghĩa là từ mười hai nhân duyên sanh tạo ra vòng sanh tử mà khởi. Tất cả chúng sanh đều đang bị cuốn vào vòng xích khắc nghiệt ấy – mà hai mắt xích quan trọng là vô minh và khát ái. Vô minh là nguyên nhân tiềm ẩn, cái khởi đầu cho nên rất vi tế của vòng mười hai nhân duyên sanh tử khổ đau. Khát ái là cái đã hiện hình nên dễ thấy. Tất cả chúng sanh đang bệnh, đang tự cột trói mình càng lúc càng chặt bằng mười hai mắt xích nhân duyên sanh. Không những chỉ một sợi xích mười hai nhân duyên sanh của một đời, mà vô số sợi xích mười hai nhân duyên sanh của vô số đời đã tạo thành một tấm lưới khổng lồ, bền chắc trùm siết tất cả chúng sanh trong ba cõi sanh tử. Chính vì cái nhìn trí huệ này thấy tất cả chúng sanh đang bệnh, đang duy trì bệnh, đang bồi bổ cho bệnh, đang làm mồi cho vô số bệnh mà lòng đại bi của Bồ tát phát khởi: “Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh.” Và vì để cứu chúng sanh thoát khỏi bệnh, Bồ tát phải vào sanh tử, mà có sanh tử thì có bệnh.

Ở đây, để rõ ràng hơn, chúng ta theo kinh điển chia năm mươi địa vị Bồ tát thành ba cấp độ tương đương với điều kinh điển gọi là “ba a tăng tỳ kiếp”. Ở cấp độ thứ nhất (Thập tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng), có thể gọi là Sơ phát tâm, mình cũng hoàn toàn đang bệnh, thậm chí chưa có phương thuốc gì để thực sự chữa lành, nhưng do Phật, Tổ chỉ dạy mà bắt đầu thấy ra mình và tất cả mọi người đều bệnh, do đó mà Bi và Trí bắt đầu phát lộ, và tuy chúng có được thoáng thấy, nhưng chúng chưa có nền tảng thật sự. Ở cấp độ thứ hai, Bồ tát từ Sơ địa đến Thất địa, đã thấy được Pháp thân từ sơ địa thứ nhất, do đó có nền tảng (địa) thực sự để lành bệnh, để Trí và Bi hiển lộ. Tuy ở cấp độ này có thể thực sự lành bệnh và chữa được bệnh cho người khác (tự giác giác tha), nhưng cấp độ này được gọi là con đường còn ô nhiễm, nghĩa là còn có dấu vết sanh tử, còn có dấu vết của bệnh. Phải đến địa thứ tám mới hết nhiễm ô, hết sanh tử, hết bệnh và giải thoát. Cho nên khi nói “Bồ tát vào sanh tử” theo cách nói của ngài Duy Ma Cật, thì Bồ tát ở đây phải đã ra khỏi sanh tử, hết hẳn bệnh, tức là từ địa thứ tám trở lên đến địa vị Phật.

“Nếu tất cả chúng sanh hết bệnh, bệnh tôi sẽ hết”, chúng ta thấy đây đích thực là một lời nguyện, một lời nguyện như sấm nổ vang cả ba cõi. Thế mà lời nguyện ấy được diễn tả thành một câu nói có vẻ bình thường tự nhiên. Cái bình thường ở đây là cái bình thường của những Bồ tát ở bậc cao, không còn cố gắng phát tâm, phát nguyện, ở nơi các ngài Trí Huệ và Đại Bi đã trở thành mạng sống (Huệ mạng và có thể nói là Bi mạng), cái mạng sống tinh khiết đã loại bỏ rồi những nhiễm ô ta – người, xấu – tốt, được – mất, có – không… Trí Bi và cả Dũng đều tự nhiên, bình thường, đó là một dấu hiệu rất cao cả ở một con người.

Ở đây chúng ta thấy, “thương yêu tất cả chúng sanh như thể mỗi chúng sanh là đứa con độc nhất của mình” là lòng từ. Và không chịu nổi khi thấy tất cả chúng sanh đang bệnh là lòng bi. Và lòng bi này càng sâu rộng khi đi đôi với trí huệ, bởi vì trí huệ cho chúng ta thấy bệnh ấy nặng như thế nào, chúng sanh không biết tự chữa như thế nào, nguyên nhân và kết quả của bệnh như thế nào, sự cấp bách mỗi phút mỗi giây bệnh nặng thêm như thế nào…

Chỉ một câu nói, “Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh”, nếu chúng ta tham thiền thật sự về nó, chúng ta sẽ tiếp xúc được với lòng bi ở đáy lòng mình. Đó là một lòng bi thấm thấu tất cả thế gian, tất cả sanh tử, vô tận như những chiều sâu khổ đau của sanh tử. Đó là một lòng bi bao trùm và xuyên thấu, nó trở thành một cái gì tuy vô hình nhưng không thể hủy hoại, và tâm thức nào chứa đựng một cái gì bao la không thể hủy hoại, tâm thức đó cũng trở thành bao la không thể hủy hoại. Như thế bằng một lòng bi ban đầu là do phát khởi, nó sẽ đạt đến nền tảng bất tử của chính nó.

Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Nhà của cư sĩ vì sao trống không, không có cả người hầu?”

Duy Ma Cật nói: “Tất cả quốc độ của chư Phật cũng đều Không.”

Lại hỏi: “Vì gì mà Không?”

Đáp rằng: “Vì Không mà Không.”

Lại hỏi: ‘’Không sao lại dùng Không?”

Đáp rằng: “Vì không có phân biệt Không nên Không.”

Lại hỏi: “Không mà có thể phân biệt được ư?”

Đáp rằng: “Phân biệt cũng Không.”

Một đoạn đối đáp về thực tại tánh Không như thế này làm hiển lộ thực tại và đưa người mà tâm thức đã chín do tu hành có thể thể nhập được thực tại. Những sự đối đáp kiểu này về sau được dùng rất nhiều trong Thiền tông để đưa đến ngộ đối với người chưa ngộ và đưa đến thâm nhập thêm vào pháp tánh với người đã từng có kinh nghiệm ngộ.

Ngài Duy Ma Cật đã làm cho ngôi nhà của ngài trống không để hiển lộ cho chúng ta thấy tánh Không, hay cái Không. Thật ra mọi thứ chúng ta đang kinh nghiệm, cây cối, nhà cửa, người qua kẻ lại… tất cả đều trống không như ngôi nhà của ngài. Đó là kinh nghiệm về thực tại tối hậu của đạo Phật. Nhưng thực tại tánh Không này không có nghĩa là không có gì cả. Nói cho dễ hiểu, thì mọi thứ chúng ta thấy đều là những hình bóng trong gương (Tâm Không, tánh Không, Đại Viên Cảnh Trí), và với người chưa biết được gương, thì họ nói tất cả thực tại chính là những hình bóng này, nhưng với người biết được gương, họ sẽ nói rằng mọi thứ có là gì đi nữa, cũng chỉ là gương. Và chỉ có gương là tồn tại, là thật. Chỉ có cái Không là thật, và dù cuộc đời này có diễn xuất như thế nào, cũng chỉ sanh diệt trong cái Không này, và do đó tất cả đều là Không, tất cả đều trống không như nhà của ngài Duy Ma Cật.

Nhưng sự trống không đó do gì mà trống không, cái Không đó do gì mà Không? Với người đã đạt đến bản tánh của tâm thức mình, bản tánh đó là tánh Không, thì câu trả lời rất hiển nhiên và rất đơn giản: Vì Không cho nên Không. Vì nền tảng là Không, vì tất cả các pháp dù có xuất hiện nhưng vô tự tánh cho nên tất cả là Không. Hay nói theo thí dụ trên, vì mọi hình bóng đều xảy ra trong gương Không nên tất cả phải là Gương Không.

Lại hỏi: Đã vốn là Không, thì việc gì phải làm cho trống không? Cần gì phải có ý niệm Không, hay quán tưởng ra cái không có tướng hay ra cái có tướng nữa để làm gì? Đáp rằng: Vì không có phân biệt Không, nên Không. Khi tâm ta không có phân biệt nào trong thực tại, tâm bèn trở lại bản vị của nó, tức tánh Không, nên đó chính là tánh Không. Và trong cái Không này, mọi phân biệt đều bất khả đắc, dù có phân biệt cũng bất khả đắc, cho nên nói rằng, trong cái Không, không thể có phân biệt nào.

Lại hỏi: Không mà có thể phân biệt được ư? Người mà ở trong tánh Không thì thấy câu này quả là hiển nhiên không thể chối cãi. Đã là Không thì còn chỗ nào đâu nữa cho phân biệt? Đáp rằng: Dù có muốn phân biệt gì gì đi nữa, thì cũng chẳng làm gì được với cái Không kim cương bất hoại này. Dù tư tưởng có tạo tác kiểu gì cũng vẫn là Không, không thể ra ngoài cái Không này được. Dù có tạo ra bao nhiêu hình bóng trong gương, cũng chẳng có bóng nào chẳng phải là gương, chẳng có bóng nào thoát ra khỏi gương. Và như vậy, Không chẳng thể sanh ra, chẳng thể kiến tạo ra Không, vì mọi sanh ra, mọi kiến tạo đều bất khả đắc vậy.

Ở trên chỉ là một cách tiếp cận với tánh Không qua những lời đối đáp của hai vị Đại Bồ tát và lối giải thích tiếp cận ấy cũng chỉ là nhất thời, trong lúc này của chỉ một người, vào lúc khác sẽ diễn giảng khác. Nói thế để biết mỗi người phải nỗ lực tư duy và thiền định trong khuôn khổ khuynh hướng tâm thức của mình để mở ra một cái thấy về tánh Không bằng chính kinh nghiệm của mình. Bởi vì tánh Không là vô biên, vô lượng, nên nghĩa những câu kinh trên cũng vô biên, vô lượng.

Lại hỏi: “Không, nên tìm ở đâu?”

Đáp rằng: “Nên ở trong sáu mươi hai kiến chấp mà tìm.”

Lại hỏi: “Sáu mươi hai kiến chấp nên tìm ở đâu?”

Đáp rằng: “Nên ở trong sự giải thoát của chư Phật mà tìm.”

Lại hỏi: “Giải thoát của chư Phật nên tìm ở đâu?”

Đáp rằng: “Nên ở trong tâm hạnh của tất cả chúng sanh mà tìm.”

Đoạn trên nói về cái Không trong tương quan với chính nó, nghĩa là trong chân lý tuyệt đối; đoạn này nói về cái Không trong tương quan với chân lý quy ước.

Sáu mươi hai kiến chấp là sáu mươi hai tà kiến của thế gian bình thường: chấp năm ấm và những thứ đoạn thường, có không… Tìm Không trong sáu mươi hai kiến chấp nghĩa là tìm trong kiến chấp nào của thế gian cũng thấy nó không căn cứ, không nền tảng, không thể lập, nên kiến chấp nào cũng là Không. Bất kỳ một ý kiến nào, một tư tưởng nào, một tình cảm nào khởi lên, nếu tìm rốt ráo, nó phải là Không. Sáu mươi hai kiến chấp là lông rùa, sừng thỏ ở trong cái Không này. Sáu mươi hai kiến chấp chính là tánh Không.

Những món kiến chấp, ý kiến, tư tưởng, tình cảm đó tìm ở đâu? Bằng sự quán chiếu sâu xa, chúng ta thấy rằng chúng vô sở hữu, như hoa đốm vọng thấy giữa hư không, như mười thí dụ như huyễn trong kinh Đại Bát Nhã. Thấy sáu mươi hai kiến chấp “trong sự giải thoát của chư Phật”, tức là trong tánh Không, bèn ngay đó giải thoát.

Và rồi giải thoát của chư Phật lại tìm thấy ở đâu? Ở trong tâm hành của tất cả chúng sanh. Nghĩa là tất cả những tư tưởng, những xúc cảm… đã sanh khởi, đang sanh khởi hay sẽ sanh khởi, tất cả những tâm hành ấy chính là sự giải thoát của chư Phật, nghĩa là chính là tánh Không. Những tâm hành ấy không chỉ sanh ra trong Không, trụ trong Không và diệt trong Không, mà chúng chính là Không, sóng chính là nước, bóng chính là gương, cho nên sanh mà vĩnh viễn chẳng sanh: “Nếu có đến rốt ráo là chẳng đến; nếu có đi, rốt ráo là chẳng đi; cái xuất hiện rốt ráo là chẳng thấy”. Đó là giải thoát của chư Phật.

“Ngài lại hỏi, vì sao tôi không có người hầu? Tất cả chúng ma và các ngoại đạo là người hầu của tôi. Vì sao thế? Chúng ma ưa sanh tử, mà Bồ tát thì không bỏ sanh tử; ngoại đạo ưa các kiến chấp, mà Bồ tát thì nơi các kiến chấp mà chẳng động.”

Chúng ma và ngoại đạo ở đây không phải là một loại đặc biệt nào, mà là tất cả chúng sanh nào ưa thích sanh tử và chưa được chánh kiến nên vẫn sanh khởi đủ loại kiến chấp. Nói tóm, tất cả chúng sanh là người hầu của Bồ tát, là bạn của Bồ tát, bởi vì Bồ tát có lòng bi nên không bỏ sanh tử, và có trí huệ nên có thể ở chung lộn với các kiến chấp, vì “ở nơi các kiến chấp mà chẳng động”.

Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Bệnh của cư sĩ có tướng trạng thế nào?”

Duy Ma Cật nói: “Bệnh tôi không có hình trạng, không thể thấy được.”

Lại hỏi: “Bệnh ấy hiệp với thân ư? Hiệp với tâm ư?”

Đáp rằng: “Chẳng phải hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa. Cũng chẳng phải hiệp với tâm, vì tâm như huyễn.”

Lại hỏi: “Trong bốn đại, địa, thủy, hỏa, phong, bệnh nơi đại nào?”

Đáp rằng: “Bệnh này chẳng phải địa đại, cũng chẳng lìa địa đại. Thủy, hỏa, phong đại cũng lại như vậy. Nhưng bệnh của chúng sanh nương nơi bốn đại mà khởi. Vì chúng sanh có bệnh cho nên tôi bệnh.”

Bệnh của Bồ tát là lòng bi đối với bệnh sanh tử của chúng sanh. Nhưng bệnh sanh tử này của chúng sanh không tìm thấy đâu cả trong bốn đại, trong thân lẫn trong tâm, tìm kiếm tận cùng, rốt ráo là bất khả đắc. Quan sát kỳ cùng căn bệnh sanh tử này cho đến chỗ: “không có hình trạng, không thể thấy được” bèn chứng nghiệm bệnh rốt ráo không có, liền hết bệnh sanh tử.

Chính vì bệnh của chúng sanh không có tướng trạng gì, không thể thấy được mà lòng bi của Bồ tát cũng không có tướng trạng gì, không thể thấy được. Lòng bi không bị giới hạn theo hình tướng, nên là vô tướng, vô biên; không còn sanh khởi theo duyên, nên là vô duyên vô ngại. Đó là đại bi, ứng theo vật mà hiện hình, không phân biệt, không bỏ sót, không bị ngăn trệ nên sức mạnh là vô tận, không có hình tướng nên không bị hư hoại, cần biết rằng càng bớt chấp vào tướng thì đại bi càng “lớn lên”, càng bớt trụ vào hình bóng thì mặt gương càng rộng, càng sáng.

Nhưng với chúng sanh như chúng ta, hay người mới phát tâm đi con đường Bồ tát như chúng ta, cái khó khăn đầu tiên và quan trọng nhất là biết mình bị bệnh: thấy có tướng ở đâu thì chỗ đó có bệnh, khởi tâm phân biệt lên tức thời là sanh bệnh, khởi tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng lên là sanh bệnh, khởi tâm hơn thua lên là sanh bệnh… Khi đã rõ bệnh sanh ra như thế nào rồi, thì biết tình trạng khỏe mạnh trước khi bệnh sanh ra là thế nào, từ đó mà dần dần phục hồi lại trạng thái không bệnh.

Khi thấy rõ bệnh “chẳng hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa. Cũng chẳng hiệp với tâm, vì tâm như huyễn”. Khi thấy bệnh không có ở đâu cả, thì hết bệnh sanh tử.

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật rằng: “Bồ tát nên an ủi Bồ tát có bệnh như thế nào?”

Duy Ma Cật nói: “Nói thân là vô thường, chẳng nói chán bỏ thân. Nói thân có khổ, chẳng nói thích nơi niết bàn. Nói thân vô ngã, mà nói hãy hướng dẫn chúng sanh. Nói thân không tịch, chẳng nói tìm rốt ráo tịch diệt. Nói sám hối tội trước, chẳng nói đi vào quá khứ. Hãy lấy bệnh mình mà thương bệnh người. Hãy nhớ vô số kiếp trước khổ đau mà tưởng đến sự làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Hãy nhớ tu phước đức thiện căn, tưởng đến đời sống trong sạch, chớ sanh lo buồn, thường sanh tinh tấn. Hãy làm vị y vương, chữa trị tất cả các bệnh. Bồ tát nên an ủi Bồ tát có bệnh như vậy, khiến cho hoan hỷ.”

‘Bồ tát có bệnh’ ở đây là Bồ tát mới tu, cần sự an ủi để đi cho đúng đường, chưa thực sự tự mình chữa lành bệnh cho mình được. Khi bệnh thì dễ chán thân, dễ hướng sự tu hành đến chỗ giải quyết cho được cái thân này mà quên đi những người khác cũng đang bệnh, và dĩ nhiên là bệnh nặng hơn mình nhiều. Cho nên thấy mình bệnh, thấy mình đã từng khổ đau từ vô số kiếp thì hãy mở tâm ra mà nghĩ đến vô số người đang bệnh, đang khổ đau từ vô số kiếp. Chỉ sự mở tâm ra này đã làm lành bệnh rồi, bởi vì tất cả mọi bệnh tật đều lấy một cái ta làm nơi tập trung, tất cả mọi nghiệp quả đều từ nơi cái ta mà trổ. Phải chữa lành bệnh – kết quả của nghiệp xấu – bằng làm phước đức thiện căn, bằng cách sống đời trong sạch đầy nghiệp thiện, bằng sự thường tinh tấn. Hãy làm vị y vương chữa bệnh cho mình và cho người bằng Phật pháp.

Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Cư sĩ, Bồ tát có bệnh làm sao điều phục tâm mình?”

Duy Ma Cật trả lời: “Bồ tát có bệnh nên nghĩ như vầy: Nay bệnh của ta đều do các phiền não điên đảo tư tưởng hư vọng đời trước mà sanh, không phải thật có, thì ai chịu bệnh. Tại sao như vậy? Bốn đại hòa hợp nên giả gọi là thân. Bốn đại không có chủ, thân cũng không có ngã.

‘‘Lại nữa, bệnh này sanh khởi đều do chấp ngã. Thế nên chớ sanh đắm trước cái ngã. Đã biết gốc bệnh, liền trừ tưởng ngã và tưởng chúng sanh. Hãy khởi tưởng Pháp. Nên nghĩ như vầy: Chỉ do các pháp hợp thành thân này, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Nhưng lại nữa, các pháp ấy đều chẳng biết nhau, khi khởi không nói ta khởi, khi diệt không nói ta diệt. Bồ tát có bệnh ấy, để diệt tưởng pháp, phải nghĩ như vầy: Các tưởng pháp này cũng là điên đảo. Điên đảo tức là đại họa, ta phải lìa bỏ nó.

Quán sát, hay quán chiếu, là nhìn thẳng vào thực tại như nó vốn là. Sự quán chiếu thực tại giải tan những chướng ngại – tưởng ngã, tưởng chúng sanh, và tưởng pháp… – thông suốt qua những chướng ngại, khi ấy sự quán chiếu trở thành chính thực tại. Quán chiếu chính là thực tại, trong đó không có người thấy, cái được thấy, không còn hình tướng và tư tưởng nào ngăn che. Đây là sự lành bệnh.

Sự quán thẳng vào thực tại làm tiêu những tưởng điên đảo khiến ta làm một với thực tại: cái thấy và cái được thấy là một. Nhưng không dễ gì quán chiếu thẳng vào thực tại trong mọi lúc mọi thời, mà khi không quán chiếu trực tiếp thực tại thì tướng và tưởng sẽ khởi lên do vẫn còn ngủ yên trong căn bản thức. Bởi thế phải quán chiếu chính cái bệnh, cái ngăn che: tưởng ngã, tưởng chúng sanh và tưởng pháp. Cứ một phần cái ngăn che tan biến thì một phần thực tại hiển lộ. Hai sự quán chiếu này là điều hành giả phải làm, không phải vài tuần, vài tháng, mà trọn đời, bởi vì thực tại thì vô hạn và sự ngăn che cũng vô hạn, pháp giới thì toàn khắp và sự ngăn che cũng toàn khắp (vì sự ngăn che ở ngay nơi con mắt tâm của mình). Thậm chí nhiều đời mới mong hết bệnh, có điều phải nên nhớ rằng hễ càng hết bệnh thì càng lợi lạc cho mình và càng lợi lạc cho người và sự bớt bệnh này là hạnh phúc không thể nói bằng lời. Đây là phần thưởng của sự tinh tấn trong việc điều phục tâm mình cho hết bệnh.

“Thế nào là lìa bỏ? Lìa bỏ ta và cái của ta. Thế nào là lìa bỏ ta và cái của ta? Là lìa bỏ hai pháp chủ thể và đối tượng. Thế nào là lìa bỏ hai pháp chủ thể và đối tượng? Là chẳng nghĩ tưởng các pháp bên trong và bên ngoài, nhất tâm thực hành bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Là ngã bình đẳng, Niết bàn bình đẳng. Tại sao như vậy? Ngã và Niết bàn, cả hai đều Không. Vì sao mà Không? Vì chỉ là danh tự nên Không. Hai pháp nhị biên này không thể kiến lập, không có tự tánh quyết định. Thấy được tánh bình đẳng như vậy, thì không phân biệt giữa bệnh và Không, nên không còn bệnh gì nữa. Có còn là chỉ có cái bệnh về Không. Nhưng cái bệnh về Không cũng Không.

“Bồ tát có bệnh này lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ. Chưa đầy đủ Phật pháp thì cũng không diệt cái thọ mà thủ chứng vậy.

Pháp giới vốn không đây kia, trong ngoài, ta và cái của ta, nhưng vì căn bệnh vô minh phân biệt của chúng ta mà thành ra đủ thứ tướng bên trong ta và tướng bên ngoài ta. Mỗi tướng bên ngoài đều có sự liên kết với cái bên trong – như một cái cây là cái cây trong tương quan với tâm thức bên trong của ta – và mỗi tướng bên trong, vui buồn, xúc cảm, tham, sân… đều liên kết với tướng ở bên ngoài. Cả hai liên kết với nhau chằng chịt, kiên cố tạo thành sanh tử cho riêng mỗi người. Cho nên vấn đề chữa bệnh đều quy về hai cái: chấp ngã và chấp pháp, chấp chủ thể và chấp đối tượng. Giải thoát chỉ là việc quán chiếu cho tiêu hai cái vọng tưởng căn bản này thôi vậy.

Sự quán sát liên tục, thấu đáo về chủ thể sẽ đưa đến cái hiểu biết thực sự rằng bên trong không có một nền tảng nào cả. Và bên ngoài không có một tướng nào, một pháp nào có nền tảng để có thể nắm lấy, có thể đắc. Với sự quán chiếu liên tục này, có một lúc nào chúng ta thực sự lọt vào pháp tánh hay tánh Không, đó là bước vào địa thứ nhất. Từ đây tánh Không là niềm tin, sự xác quyết của chúng ta, do đó căn bệnh chấp tướng thâm căn cố đế bắt đầu có thể thực sự được lìa bỏ. Càng lìa bỏ chúng ta càng hưởng được cái tự do bao la của pháp giới, niềm phúc lạc không ngăn ngại (do hình tướng phân biệt mà có ngăn ngại), cái rỗng rang không bờ mé của Pháp Giới Nhất Tâm…

Ở đây kinh dạy chúng ta một phương pháp – trong rất nhiều phương pháp của đạo Phật – để giải quyết một vấn đề căn bản: lìa bỏ hai pháp chủ thể và đối tượng. “Chẳng nghĩ tưởng các pháp (các tướng) bên trong và bên ngoài”: sự nghĩ tưởng là nhiên liệu làm bừng cháy thêm sự chấp pháp, không nghĩ tưởng đến chúng thì chúng trở thành tịch diệt, an nghỉ trong tánh Không. Và “nhất tâm thực hành bình đẳng”: không xao lãng, không để tâm thức làm méo mó thật tướng mà chuyên chú tham thiền về chính sự bình đẳng, sự không phân biệt của pháp tánh, tức là thật tướng của tất cả các pháp, tức là tánh Không. Hai thực hành này, một chú ý đến hiện tượng, một chú ý vào bản thể, sẽ đưa chúng ta thật sự bước vào tánh Không.

“Thế nào là bình đẳng? Là ngã bình đẳng, Niết bàn bình đẳng”. Lời khai thị của ngài Duy Ma Cật trực tiếp chỉ thẳng làm sao! Nhưng những lời khai thị như thế này – và có rất nhiều lời như vậy trong Kinh – không khiến chúng ta vào được thực tại không ngã không pháp thì đó là vì những ngăn chướng của chúng ta còn nhiều trong tâm mà sự thực hành của chúng ta chưa phá vỡ được, chứ không phải những câu nói ấy không phát xuất từ lòng bi vô lượng của ngài.

Tất cả các pháp, dù trong dù ngoài, dù ngã hay là Niết bàn vô ngã, đều chỉ là danh tự, nên không thể kiến lập: tất cả thuần là tánh Không. Đến chỗ này rồi, nếu một mực đi vào cái Không bản thể mà bỏ quên cái Không hiện tượng, nghĩa là bỏ thế giới hiện tượng của chúng sanh, thì cái Không thuộc về bản thể này là bệnh của Bồ tát bậc cao. Đây là điều kinh Đại Bát Nhã nói: học Không bất chứng. Nghĩa là Bồ tát học Không, tu hành Không nhưng không thủ chứng Không về mặt bản thể. Thủ chứng Không về mặt bản thể là “diệt cái thọ để thủ chứng” (tức là thủ chứng Không về mặt bản thể, hay thủ chứng Niết bàn). Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ tát địa thứ sáu trở lên đều có thể nhập diệt định, nhập diệt định tức là “diệt cái thọ mà thủ chứng” ở đây vậy. Nếu thủ chứng thì chỉ mới đi được hai phần ba con đường, và do đó mà “chưa đầy đủ Phật pháp”, không tiến thêm lên các địa trên để đến quả Phật.

Như vậy, để thoát khỏi cái bệnh về Không này chỉ hướng đến bản thể mà bỏ mất thế giới hiện tượng gồm cả chúng sanh trong đó, Bồ tát phải Không luôn cái Không bản thể này, như chúng ta thường thấy có từ ngữ Không Không. Cái Không về bản thể này mà cũng Không, thì không còn chấp vào ‘chỉ cái Không bản thể’, do đó mà vẫn không từ bỏ thế giới hiện tượng, đồng thời thế giới hiện tượng này cũng là Không. Bồ tát đi đến toàn giác bằng cách ôm trọn cả hai thế giới bản thể (chân lý tuyệt đối) và thế giới hiện tượng (chân lý quy ước) vào trong tánh Không. Sở dĩ gọi là toàn giác hoàn toàn, vì Bồ tát không bỏ thế giới hiện tượng, không bỏ chân lý quy ước, và cái này chính là môi trường, chỗ hiện hành của đại bi. Đầy đủ cả Trí và Bi, đó là toàn giác.

Làm sao mà vẫn không từ bỏ thế giới hiện tượng đồng thời vẫn thâm nhập tánh Không? Kinh dạy “lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ”. Không thọ nhận các thọ, đó là nhập diệt thọ tưởng định. Nhưng “lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ” đó là con đường hành trì của Bồ tát. Con đường đó là con đường Trung Đạo: không chỗ thọ mà vẫn thọ nhận các thọ; thọ nhận các thọ mà vẫn không chỗ thọ. Con đường Trung Đạo “Tức Thị” này đi giữa sắc và Không: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”.

“Lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ”, đây là hạnh phúc cho riêng mình của Bồ tát, đồng thời không bỏ quên bổn phận – cũng là một hạnh phúc khác – đối với chúng sanh là làm cho họ được hạnh phúc.

“Nếu thân có khổ, bèn nghĩ đến chúng sanh trong các nẻo xấu số mà khởi lòng đại bi. Ta đã điều phục, cũng phải điều phục cho tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bỏ bệnh mà chẳng trừ pháp. Vì đoạn trừ gốc bệnh mà hướng dẫn dạy dỗ chúng sanh.

“Sao gọi là gốc bệnh? Tức là có phan duyên. Khi nào có phan duyên, đó là gốc bệnh. Phan duyên cái gì? Đó là ba cõi. Làm thế nào đoạn dứt phan duyên? Hãy dùng không chỗ đắc. Khi không chỗ đắc thì không có phan duyên. Sao gọi là không chỗ đắc? Đó là lìa hai kiến chấp. Sao gọi là hai kiến chấp? Là kiến chấp bên trong và kiến chấp bên ngoài, cả hai đều không chỗ đắc.

“Ngài Văn Thù Sư Lợi! Như thế gọi là Bồ tát có bệnh điều phục tâm mình. Đoạn dứt cái khổ, già, bệnh, chết, đó là Bồ đề của Bồ tát. Nếu không như vậy thì sự tu trị của Bồ tát không có lợi lạc về trí huệ gì cả. Ví như chiến thắng thù địch mới gọi là anh hùng, người trừ sạch già, bệnh, chết mới gọi là Bồ tát.

Chỉ trừ bỏ bệnh mà chẳng trừ bỏ pháp nghĩa là chỉ trừ bệnh vọng thấy, bệnh nhặm mắt mà không ữừ bỏ cái thấy thanh tịnh và thực tại thanh tịnh.

Phan duyên nghĩa đen là bám nắm, vịn theo. Sự bám nắm vịn theo này phân chia pháp giới thành nhị nguyên ta và cái chẳng phải ta, từ đó mà có tham cái chẳng phải ta, hay ghét cái chẳng phải ta, đủ mọi thứ tốt xấu, phải trái… Tất cả đều từ gốc bệnh phan duyên, nghĩa là từ sự phân chia thành một cái ta chủ thể bên trong và một thế giới đối tượng bên ngoài. Với cái ta chủ thể thì có muôn vàn kiến chấp bên trong và thế giới đối tượng cũng có muôn vàn kiến chấp bên ngoài. Thực tại vốn không có chủ thể đối tượng, không bị giới hạn trong chủ thể giả tạo và đối tượng giả tạo. Nhưng sự phan duyên là sự chủ thể hóa và đối tượng hóa tất cả mọi cái mà nó kinh nghiệm, đó là cái chúng ta gọi là vọng tưởng. Như vậy ba cõi chỉ là sự phan duyên, hay là cái đối tượng hóa bất tịnh (vì phân biệt) của một chủ thể bất tịnh (vì khát ái).

Làm thế nào để đoạn dứt phan duyên? Hãy để cho thực tại tự nó hiện tiền, không khởi lên bất kỳ một sự chủ thể hóa và đối tượng hóa giả lập nào. Khi thấy, nghe, rõ biết mà không có chủ thể thấy nghe rõ biết và đối tượng được nghe thấy rõ biết thì lúc đó thực tại bắt đầu lộ diện. Bởi vì thực tại là sự vắng mặt của chủ thể và đối tượng, cho nên chủ thể và đối tượng chỉ là giả danh, chỉ là “không chỗ đắc”. Không chỗ đắc là tất cả mọi thứ chủ thể hóa thành cái bên trong và mọi thứ đối tượng hóa thành cái bên ngoài phải được xác quyết là không chỗ đắc. Khi bóng này bóng nọ đều không chỗ đắc, toàn bộ mặt gương hiển lộ.

Người chiến thắng tất cả thù địch chủ thể hóa và đối tượng hóa do tự mình khởi lên thành vô minh của mình để chứng ngộ được pháp giới Nhất Tâm thì gọi là anh hùng, là Bồ tát. Tất cả mọi tông phái Phật giáo đều quy về điểm này dù có nhiều phương tiện khác nhau.

“Bồ tát có bệnh lại nghĩ như vầy: Như bệnh của tôi đây không thật, không có; bệnh của chúng sanh cũng không thật, không có. Khi quán sát như vậy mà đối với các chúng sanh nếu khởi lên lòng bi ái kiến thì phải xả bỏ ngay. Vì sao thế? Bồ tát đoạn trừ phiền não khách trần mà khởi đại bi, còn lòng bi ái kiến thì đối với sanh tử tái sanh có lòng chán mệt. Nếu lìa ái kiến thì không có tâm chán mệt, tái sanh nơi nào cũng không bị ái kiến che đậy. Tái sanh như vậy thì giống như một sự giải thoát, mới có thể vì chúng sanh nói pháp mà giải thoát sự trói buộc cho chúng sanh. Như Phật có nói: “Nếu tự mình bị trói buộc mà giải thoát cho sự trói buộc của người khác, chuyện ấy không thể có. Nếu tự mình không bị trói buộc mà giải thoát cho sự bị trói buộc của người khác, chuyện ấy có thể được.”

Thế nên Bồ tát không nên khởi sanh sự trói buộc.

Đoạn trừ phiền não khách trần, tức là phiền não do phân biệt tướng, mà khởi đại bi, đó là đại bi chân thật. Nghĩa là đại bi chân thật không lìa khỏi trí huệ nhìn thấy thật tướng. Còn lòng bi ái kiến là lòng bi do chấp tướng: thấy có tướng mà sanh khởi. Thấy có tướng chúng sanh, rồi tướng chúng sanh giàu khác nghèo khác, chúng sanh đang hạnh phúc, chúng sanh đang đau khổ… đó là kiến. Trên cái kiến ấy, sanh ra cái ái, thương ít thương nhiều, nghèo như ta thì ta thương hơn, khổ như ta thì ta thương hơn, ai thương ta thì ta thương hơn… Lòng bi ái kiến là do thiếu trí huệ nhìn thấu căn bệnh vô minh sanh ra khổ ở nơi mỗi chúng sanh: người nghèo thì khổ theo cách nghèo, nhưng người giàu cũng khổ vì cũng đang điên đảo với vô minh, cũng đang sanh ra bao nhiêu là nhân khổ. Do nhìn thấu gốc bệnh, nên lòng bi trở nên rộng rãi hơn vì không thiên trệ vào một dạng sống đặc biệt nào, và sâu thẳm hơn vì nhìn thấy cơ cấu của khổ nằm nơi mỗi chúng sanh.

Khi đã có lòng bi ái kiến, nghĩa là trí huệ cạn cợt và tình thương thiên lệch như vậy, ấy là tự mình sanh ra một sanh tử méo mó và do đó mà mệt mỏi, chán ngán. Khi đã thấy sanh tử do mình tạo ra như vậy là rối rắm, khó nhọc, phiền toái, làm chán ngán và mệt mỏi, bèn sợ phải tái sanh. Còn nếu lòng bi không có ái kiến, nghĩa là không có những méo mó che đậy, thì một sự tái sanh là một giải thoát. Đi từ một cái Không đến một cái Không, từ một cái không ái kiến đến một cái không ái kiến, đó là giải thoát. Có như thế mới giải thoát cho người khác được.

Tóm lại lòng bi mà không có trí huệ đi kèm là một lòng bi uổng phí, và không những uổng phí mà còn không lợi mình lợi người, vì do khởi sanh sự trói buộc vậy. Một lòng bi không khởi tướng để tự trói buộc mình sẽ đưa hành giả thâm nhập pháp tánh để thể nhập vào năng lực nguyên sơ của pháp tánh.

“Sao gọi là trói buộc? Sao gọi là giải thoát? Tham đắm vào giải thoát khỏi thế gian mà không dùng phương tiện giải thoát là sự trói buộc của Bồ tát; dấn thân vào cuộc đời thế gian mà dùng đầy đủ phương tiện giải thoát là sự giải thoát của Bồ tát. Kinh nghiệm mùi vị thiền định mà không thiện xảo trong phương tiện giải thoát là trói buộc; kinh nghiệm mùi vị thiền định mà thiện xảo trong phương tiện giải thoát là giải thoát.

“Trí huệ không hội nhập với phương tiện giải thoát là trói buộc; trí huệ hội nhập với phương tiện giải thoát là giải thoát. Phương tiện giải thoát không hội nhập với trí huệ là trói buộc; phương tiện giải thoát hội nhập với trí huệ là giải thoát.

Trí huệ chú trọng tới mặt bản thể, thể tánh, tức là tánh Không, chân lý tuyệt đối, thế giới của Lý. Phương tiện chú trọng về mặt hiện tượng, hình tướng, là chân lý quy ước, tương đối, thế giới của Sự. Trí huệ là sự tích tập trí huệ về tánh Không. Phương tiện là sự tích tập công đức. Chỉ chú trọng một mặt mà lơ là với mặt kia thì đó là trói buộc. Sự hội nhập nhuần nhuyễn giữa trí huệ và phương tiện làm nên con đường Bồ tát. Sở dĩ phương tiện được gọi là phương tiện giải thoát vì nó phối hợp với tánh Không. Trí huệ càng soi chiếu rõ ràng bao nhiêu thì phương tiện càng được thấy rõ và sử dụng có hiệu lực bấy nhiêu. Chính nhờ phương tiện mà hành giả càng đi sâu vào tánh Không và cũng chính phương tiện là cái đặc trưng của Đại thừa để phân biệt với những con đường chỉ “tham đắm vào sự giải thoát khỏi thế gian”.

“Sao gọi là trí huệ không có phương tiện thì trói buộc? Trí huệ không hội nhập với phương tiện, chỉ tập trung vào Không, Vô tướng, Vô nguyện, được thúc đẩy bởi động cơ là lòng bi ái kiến, không tập trung vào sự trau dồi các tướng tốt, sự trang nghiêm cõi Phật và sự thành tựu cho chúng sanh. Đó là sự trói buộc của trí huệ không có phương tiện.

“Sao gọi là trí huệ có phương tiện thì giải thoát? Trí huệ hội nhập với phương tiện được thúc đẩy bởi động cơ là đại bi và như vậy tập trung vào sự trau dồi các tướng tốt, sự trang nghiêm cõi Phật và sự thành tựu cho chúng sanh mà vẫn luôn luôn ở trong Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đó là sự giải thoát của trí huệ có phương tiện.

“Sao gọi là phương tiện không có trí huệ thì trói buộc? Phương tiện không hội nhập với trí huệ mà trồng các cội công đức nhưng không hồi hướng chúng cho giác ngộ trong khi vẫn ở trong các phiền não tham dục, sân hận, tà kiến… Đó là sự trói buộc của phương tiện không có trí huệ.

“Sao gọi là phương tiện có trí huệ thì giải thoát? Phương tiện hội nhập với trí huệ mà hồi hướng các cội công đức cho giác ngộ trong khi lìa các phiền não tham dục, sân hận, tà kiến… Đó là sự giải thoát của phương tiện có trí huệ.

Phương tiện bao gồm phạm vi rất rộng, chẳng hạn những phương tiện tu hành, tức là các phương pháp thực hành để đạt tánh Không, phương tiện để cứu độ giáo hóa chúng sanh, phương tiện để sống cuộc đời trong thế gian… Đến cấp độ cao của những Đại Bồ tát, của Phật, thì tất cả sanh tử thế gian này là phương tiện.

Phương tiện là một yếu tố then chốt cho cuộc đời Bồ tát thậm chí có thể nói không có phương tiện thì không có Bồ tát. Nhưng dù là gì, bao giờ phương tiện cũng kết hợp với trí huệ. Phương tiện đến đâu thì trí huệ đến đó, và trí huệ đến đâu thì phương tiện đến đó.

Trí huệ tánh Không mà không có phương tiện thì chỉ một mực nhắm đến tánh Không và như vậy là “tham đắm vào giải thoát khỏi thế gian” mà không có phương tiện để ra khỏi chính sự giải thoát đó.

Còn phương tiện mà không có trí huệ tánh Không thì dù sống một cuộc đời cao cấp, chết có thể sanh lên các cõi trời, nhưng cũng bị trói buộc vào ba cõi khổ đau sanh tử. Phương tiện không có trí huệ thì dù có tu hành, làm phước… cũng là những pháp hữu vi phước đức hữu lậu, không thông được với giải thoát.

Sự thực hành phối hợp trí huệ và phương tiện là sự thực hành chân thật của bồ tát. Một lần nữa, chúng ta thấy tính cách Trung Đạo của con đường Bồ tát là thế nào.

Sự phối hợp của phương tiện và trí huệ càng lúc càng nhuần nhuyễn theo với công phu thực hành, cho đến lúc phương tiện là trí huệ, trí huệ là phương tiện. Ớ đâu có phương tiện ở đó có trí huệ, ngay nơi phương tiện là trí huệ và ngược lại. Thí dụ, tụng kinh (phương tiện) và thật nghĩa (trí huệ): đến một lúc nào tụng kinh có nghĩa là thật nghĩa hiển hiện, và thật nghĩa (trí huệ) chính là sự tụng kinh (phương tiện). Chẳng hạn với những thiền sư đã chứng ngộ thì cái gì cầm trong tay cũng là một phương tiện để chỉ dạy: một cây quạt, một tách trà, hay một cái cuốc… Hoặc là phương tiện ngồi thiền: ngồi thiền không còn là một phương tiện để đạt đến trí huệ, mà khi ngồi thiền, đó là trí huệ. Ngồi thiền là sự hiển bày của trí huệ. Đây là “Phương tiện có trí huệ thì giải thoát”.

Với sự tu hành càng sâu rộng thì trí huệ và phương tiện dần dần nhập thành một vị. Nghĩa là tất cả trói buộc đều là giải thoát, tất cả cái gì có trong cuộc đời thế gian đều là phương tiện để tu hành, để chỉ bày cho người khác thật tướng. Như nước ở đâu thì mặt trăng ở đó, và nơi nào có mặt trăng nơi đó là nước.

“Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát có bệnh nên quán xét các pháp như vậy. Lại quán xét thân là vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã, đó gọi là trí huệ. Dù thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả, không chán nản mỏi mệt, đó gọi là phương tiện. Lại quán xét thân: thân không rời bệnh, bệnh không rời thân, bệnh ấy thân ấy chẳng phải mới chẳng phải cũ, đó gọi là trí huệ. Dù thân có bệnh mà không tìm sự vĩnh viễn diệt mất, đó gọi là phương tiện.

“Dù thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả…”, thân là phương tiện. Nhưng phương tiện ấy chỉ thật là phương tiện khi có trí huệ nhìn vào nó.

Quán thân không có tự tánh, chính là tánh Không, do đó dù có thân thì có bệnh, nhưng bệnh ấy thân ấy chẳng phải mới, chẳng phải cũ, như hoa đốm giữa không trung, như bóng trong gương, đó là trí huệ thấu rõ tánh Không. Tuy có thân thì có bệnh, nhưng chính nhờ thân huyễn này mà có mặt nơi sanh tử, cùng bệnh với tất cả chúng sanh, có như vậy mới giúp đỡ, hướng dẫn chúng sanh giải thoát được, do đó mà không bỏ thân ấy bệnh ấy mà tìm sự vĩnh viễn diệt mất. Như vậỵ thân này bệnh này chính là phương tiện, và không bị vướng mắc vào thân này bệnh này, đó là trí huệ.

Trí huệ là sự chứng đắc Pháp thân, là sự giải thoát đích thực và rốt ráo. Nhưng Pháp thân là Không, Vô tướng, Vô nguyện rốt ráo, nên Pháp thân không thể trực tiếp và cụ thể cứu độ chúng sanh. Muốn có mặt trong sanh tử để cứu độ chúng sanh phải có sắc thân (gồm Báo thân, thân thọ phước báo và Hóa thân, thân có sắc tướng thấy được). Cho nên sắc thân hay Báo thân và Hóa thân là sự thành tựu của phương tiện. Như vậy với con đường Bồ tát, sắc thân hay Báo thân và Hóa thân quan trọng không kém gì Pháp thân, phương tiện quan trọng không kém gì trí huệ.

“Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát có bệnh nên điều phục tâm mình như vầy: chẳng trụ trong sự điều phục cũng chẳng trụ trong sự không điều phục. Tại sao thế? Nếu trụ trong sự không điều phục tâm, đó là pháp của người ngu si. Nếu trụ trong sự điều phục tâm, đó là pháp của Thanh Văn. Thế nên Bồ tát không nên trụ nơi tâm điều phục hay tâm không điều phục. Lìa hai pháp này là Bồ tát hạnh.

Không điều phục tâm, để cho tâm tha hồ phóng tưởng tạo ra sanh tử cho chính mình, đó là hạnh của người phàm phu không trí. Còn một mực điều phục tâm, cắt đứt nó với cảnh bên ngoài, đi đến diệt thọ tưởng định là Niết bàn, đó là hạnh của Thanh Văn. Một bên buông lung cho sanh tử, một bên đạt đến sự diệt dứt của Niết bàn. Một bên buông lung cho tư tưởng, một bên diệt dứt tư tưởng: cả hai đều không biết cái dụng của tâm là tư tưởng, dù một bên là cực thấp một bên là cực cao. Một bên không sợ tư tưởng, một bên rất sợ tư tưởng, do đó mà không điều phục và phải điều phục, nhưng dù không điều phục hay điều phục đều không rõ thấu bản chất của tư tưởng.

Bồ tát do rõ thấu bản chất của tư tưởng nên đi con đường Trung Đạo. Tư tưởng là cái dụng của tâm, sự biểu hiện của tâm. Nhưng tâm vốn không có nền tảng, không có sự tánh nên tư tưởng cũng không có nền tảng, không có tự tánh. Nó vô tội vì không có bản chất, không có bản chất nên không ô nhiễm được tâm vốn tuyệt đối không có bản chất. Cũng như sóng vô tội vì nó chẳng làm gì được với đại dương. Và dù nó xuất hiện nó vẫn là nước của đại dương.

So với Thanh Văn, Bồ tát có một cái nhìn sâu hơn vào mọi vấn đề, và từ cái nhìn sâu xa đó, mà có pháp tu tương ứng. Dù chỉ trên bình diện ý thức nông cạn, chúng ta cũng có thể hình dung sự tự do của Bồ tát “không trụ nơi tâm điều phục cũng không trụ nơi tâm chẳng điều phục” là lớn lao, bao la đến chừng nào. Nhưng với chúng ta, chúng ta phải hiểu cho được pháp tu này để thực hành, vậy thì “không trụ nơi tâm điều phục hay tâm không điều phục”, đó là cái gì?

“Ở nơi sanh tử mà chẳng làm hạnh ô nhiễm, trụ trong Niết bàn mà chẳng vĩnh viễn diệt độ là Bồ tát hạnh. Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh là Bồ tát hạnh. Chẳng phải hạnh nhơ, chẳng phải hạnh sạch là Bồ tát hạnh. Tuy vượt khỏi hạnh Ma mà thị hiện hàng phục các Ma là Bồ tát hạnh. Cầu Nhất Thiết Trí mà không cầu khi chưa đúng lúc là Bồ tát hạnh. Tuy quán các pháp chẳng sanh mà không nhập chánh vị là Bồ tát hạnh. Tuy quán mười hai duyên khởi mà vào các tà kiến là Bồ tát hạnh.

Về mặt thực tiễn, để thấu hiểu những câu này hầu thực sự bắt đầu đi con đường Bồ tát hạnh, chúng ta phải thực sự có một kinh nghiệm thấy tận mặt bản lai diện mục của mình, thấy Pháp tánh, tánh Không, Pháp thân… của mình. Khi kinh nghiệm được Cái Ấy, chúng ta mới hiểu chính Cái Ấy “ở nơi sanh tử mà chẳng ô nhiễm, trụ trong Niết bàn mà chẳng vĩnh viễn diệt độ”. Cái Ấy “chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh”. Cái Ấy “chẳng phải hạnh nhơ, chẳng phải hạnh sạch”, rồi tương ưng theo Cái Ấy, tùy thuận theo Cái Ấy mà tu hành Bồ tát hạnh.

Hạnh Bồ tát không phải là những gì nhân tạo được lập ra rồi ai làm theo bèn trở thành Bồ tát. Hạnh Bồ tát là làm theo pháp tánh, theo Chân Như, theo Phật tánh trong đủ mọi mặt của nó. Bởi thế, chẳng phải là việc làm “xóa sạch cái nhơ thì thành cái sạch” hay “bôi bẩn cái sạch thì thành cái nhơ” theo kiểu nhị nguyên. Mà việc làm của người tu hành Bồ tát là tùy thuận với pháp tánh vốn không nhơ không sạch: chưa từng có một pháp để có thể làm cho nhơ, chưa từng nhơ mà muốn làm sạch thì làm cái gì bây giờ? Theo nghĩa chữ Bồ tát (Bodhisattva), dịch Hán Việt là Hữu tình giác, hay chúng sanh giác hay một chúng sanh biết. Biết (giác) cái gì? Biết Pháp tánh, Pháp thân rồi từ đó mà ta tu để biết hoàn toàn Pháp tánh, Pháp thân và hiển lộ đủ Ba Thân thì thành Phật. Tóm lại, Bồ tát chỉ có, Bồ tát hạnh chỉ có, đối với một người nào đó tự nhận ra được Pháp tánh, Pháp thân, Bản Tâm… của mình.

Chỉ khi nào thấy được tánh của các pháp thì mới có thể ở nơi tướng các pháp mà tu Bồ tát hạnh. Lúc đó mới có thể “ở nơi sanh tử” (nơi thế giới hình tướng) “mà chẳng làm hạnh ô nhiễm” (vì vẫn hằng tương ưng với pháp tánh vốn không ô nhiễm). Còn không thì chúng ta vẫn chưa thể học kinh; những lời kinh trên chỉ là những lý thuyết đẹp đẽ mà xa vời, chẳng ăn nhằm gì với sự sống, hơi thở, cử động, nói năng, tư tưởng của chúng ta cả. Chỉ khi nào thấy được đại dương, hay hơn nữa, tánh nước của đại dương, lúc đó chúng ta mới có thể thật sự đi con đường Trung Đạo của Bồ tát, nghĩa là vẫn sống trong thế giới của sóng, của hình tướng sanh tử, mà không lìa rời tánh nước của đại dương, đồng thời không hòa làm một với đại dương bằng cách từ bỏ các sóng “khi chưa đúng lúc” hay nói cách khác “không nhập chánh vị”.

“Tuy hòa hợp với tất cả chúng sanh mà không ái luyến là Bồ tát hạnh. Tuy thích xa lìa mà chẳng nương vào sự chấm dứt thân tâm là Bồ tát hạnh. Tuy hành ba cõi mà chẳng làm hư hoại pháp tánh là Bồ tát hạnh. Tuy hành tánh Không mà trồng các cội công đức là Bồ tát hạnh. Tuy hành Vô tướng mà độ chúng sanh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Vô tác (hay Vô nguyện) mà tự hiện thọ thân là Bồ tát hạnh. Tuy hành Vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Sáu ba la mật mà biết khắp tâm, tâm sở của chúng sanh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Sáu thông mà không dứt hết các lậu(phiền não) là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Tâm vô lượng mà chẳng ham mê sanh vào cõi Phạm thiên là Bồ tát hạnh. Tuy hành thiền định, giải thoát và tam muội mà không theo thiền định thọ sanh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Niệm xứ mà chẳng rốt ráo lìa vĩnh viễn thân, thọ, tâm pháp là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Chánh cần mà không xả bỏ thân tâm tinh tấn là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Như Ý Túc mà được thần thông không nỗ lực là Bồ tát hạnh. Tuy hành Năm Căn mà không phân biệt các căn chúng sanh lanh chậm là Bồ tát hạnh. Tuy hành Năm Lực mà thích cầu Mười Lực của Phật là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bảy Giác chi mà khéo rành trí huệ Phật là Bồ tát hạnh. Tuy hành Tám Chánh đạo mà vui thích hành Phật đạo vô lượng là Bồ tát hạnh. Tuy hành các pháp trợ đạo chỉ quán mà rốt ráo chẳng sa vào tịch diệt là Bồ tát hạnh. Tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân thể là Bồ tát hạnh. Tuy hiện oai nghi của Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chẳng bỏ pháp Phật là Bồ tát hạnh. Tuy tùy thuận tánh rốt ráo thanh tịnh của các pháp mà tùy theo chỗ ứng hiện thân mình là Bồ tát hạnh. Tuy thấy các quốc độ chư Phật vĩnh viễn vắng lặng như hư không mà biểu hiện ra đủ thứ cõi Phật thanh tịnh là Bồ tát hạnh. Tuy đắc Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn mà chẳng bỏ con đường Bồ tát là Bồ tát hạnh.”

Khi trưởng giả Duy Ma Cật nói những lời này, có tám ngàn thiên tử trong đại chúng đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi cùng phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Kinh tiếp tục triển khai về Bồ tát hạnh. Những pháp tu của Thanh Văn, Bích Chi Phật được Bồ tát sử dụng như những phương tiện, nhưng không xem chúng như là cứu cánh để chứng đắc. Vì không chứng đắc Niết bàn ở nửa đường do đó mà có thể đi xa hơn, có thêm nhiều cái quý báu được tìm thấy hơn, hai sự tích tập trí huệ và công đức được trọn vẹn hơn, rồi lấy đó làm những phương tiện để cứu độ chúng sanh.

Sự thực hành con đường Bồ tát là sự thực hành khó gấp đôi: “tuy hòa hợp với tất cả chúng sanh mà không ái luyến…, tuy hành ba cõi mà chẳng mất tánh Không…, tuy hành Vô tướng mà có chúng sanh để độ…, tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm sắc thân…” Có thể nói cuộc đời người hành đạo Bồ tát chỉ toàn gặp những công án không thể giải quyết bằng ý thức cạn cợt, mà chỉ phá thấu bằng sự thực hành có hiệu lực và thường trực tinh tấn để có được cái thấy đầu tiên về pháp tánh. Chỉ có pháp tánh mới thực sự giải quyết được những vấn nạn này, bởi vì tất cả những việc làm của Bồ tát đều phải xảy ra trên nền tảng pháp tánh.

Con đường Bồ tát là cực kỳ khó khăn – và cũng vì thế mà cực kỳ vinh quang – bởi thế mà không có sự sùng mộ, không đủ niềm tin, không đủ sức cầu nguyện thì hành giả không thể tiếp xúc tương ưng được với lực hộ trì của chư Đại Bồ tát, chư Tổ sư, chư Phật để có thể học. Khi toàn bộ cuộc sống là những bài học, cái gì xảy ra cũng là sự học, mà không có sức hộ trì, không gặp được bạn đạo đồng hành, không gặp được những vị thầy Bồ tát, thì không những con đường Bồ tát là vô phương mà còn nguy hiểm.

Có thể nói con đường Bồ tát nằm trong một chữ khéo (thiện). Khéo nói lên một thái độ hành xử trên con đường Trung Đạo: Tuy hành giải thoát mà không giải thoát, vẫn làm mọi việc để giúp đỡ chúng sanh. Chữ Khéo này được diễn tả trong cách hành văn “Tuy… mà…” Chúng ta thấy trong kinh điển Đại thừa khi nói đến Bồ tát thường dùng chữ Khéo, khi nói đến Trung Đạo thường hay dùng chữ Mà (ở nơi sanh tử mà Niết bàn, ở nơi sắc mà vẫn là Không, vắng lặng như hư khôngmàbiểu hiện ra…). Học được và hành được theo những chữ này người ta hiểu rõ thêm về Đại thừa, về hạnh của Bồ tát.

Khi trưởng giả Duy Ma Cật nói những lời này có tám ngàn thiên tử phát tâm Bồ đề, bởi vì con đường Bồ tát quá đẹp, quá Chân, quá Thiện, quá Mỹ. Nó bao gồm tất cả những gì đẹp đẽ nhất của thế gian này, tất cả những đạo đức, sự thật, ước vọng, sự toàn hảo… Cái đẹp đó là do Trung Đạo: ở trong chân lý tối hậu (tánh Không) mà không bỏ chân lý quy ước (sanh tử), và nhờ như vậy, thấy được thật tánh của sanh tử chính là Niết bàn (tánh Không). Như thế, Bồ tát là người đưa chân lý quy ước của sanh tử đến ý nghĩa tối hậu của nó, và đồng thời đưa chân lý tối hậu đến chỗ trọn vẹn của nó. Như kinh nói, Phật là bậc đồng thời thấy chân lý tối hậu (tánh Không) và chân lý quy ước (thế giới sai biệt) trong cùng lúc, nghĩa là đồng thời sử dụng căn bản trí (thấu đạt pháp tánh) và sai biệt trí hay hậu đắc trí (biết rõ ràng các hiện tượng) trong cùng một lúc.

Bài viết Bồ tát có bệnh không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/bo-tat-co-benh-khong-317/feed/ 0 317
KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO – Minh triết của sự bền vững https://nghianb.org/kinh-te-hoc-phat-giao-minh-triet-cua-su-ben-vung-260/ https://nghianb.org/kinh-te-hoc-phat-giao-minh-triet-cua-su-ben-vung-260/#respond Thu, 19 Aug 2021 05:40:53 +0000 https://nghianb.org/?p=260 Tôi thích tìm kiếm những góc nhìn đời thường trong Phật Giáo bên cạnh việc nghiên cứu các kinh điển phổ thông của Phật Giáo. Đâu đó trong con người mình khao khát được tìm kiếm sự thật, khao khát được thỏa lấp một khoảng mênh mông vô tận trong con người khiến tôi bénXem thêm

Bài viết KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO – Minh triết của sự bền vững đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Tôi thích tìm kiếm những góc nhìn đời thường trong Phật Giáo bên cạnh việc nghiên cứu các kinh điển phổ thông của Phật Giáo. Đâu đó trong con người mình khao khát được tìm kiếm sự thật, khao khát được thỏa lấp một khoảng mênh mông vô tận trong con người khiến tôi bén duyên với Phật giáo từ rất sớm, từ khi chưa biết đọc, biết viết.
Lớn lên tôi nhìn Phật giáo không giống cách đa số người xung quanh nhìn. Mọi người tới chùa, đọc kinh, cầu pháp, cầu tài, cầu lộc, lễ lạt cầu kỳ… có mục đích rõ ràng và cụ thể. Với tôi, khi nhỏ đi theo mẹ lên chùa tôi cũng làm như gì được dặn dò nhưng đâu đó thấy mọi thứ không ổn. Và dần dần những cuốn sách về Phật giáo cứ một cách tự nhiên thế nào đó được ai đó trao đến tôi theo cách tôi cũng không bao giờ nghĩ tới, tôi chỉ biết rằng, đó là Duyên thôi!
Gần đây có một cuốn sách khá hay của ngài Sulak Sivaraksa, người Siam viết về chủ đề Kinh tế học Phật giáo, tôi tin rằng ai cũng nên đọc.

Vài nét về cuốn sách và nội dung cuốn sách Minh triết của sự bền vững

  • Đối lập với nền kinh tế dựa trên Chủ nghĩa tiêu dùng hiện đại (Modern Consumerism), Nền kinh tế vận dụng đầy đủ triết lý Phật Giáo là minh triết của sự bền vững.
  • Nếu như nền kinh tế dựa trên Chủ nghĩa tiêu dùng thống trị thế giới hiện tại hướng người ta tới thỏa mãn tiêu dùng cá nhân, sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, phân cấp giàu nghèo ngày càng rõ rệt thì Kinh tế Phật giáo hướng con người tới giá trị căn bản của sự sống, hài hòa với tự nhiên, bình đẳng giữa người với người.
  • Thay vì giúp con người Tồn tại với mục đích Hưởng thụ tối đa, coi đó là mục đích sống cuối cùng thì KT Phật giáo giúp con người thực sự Sống và Theo đuổi giá trị đích thực của sự sống!
  • Thay vì khuyến khích những thay đổi vĩ mô để điều chỉnh xã hội, tác giả hướng tới sự thay đổi từ tầng đáy và sự thay đổi từ bản chất.
  • Thay vì khuyến khích tiêu dùng theo chủ nghĩa tiêu dùng hiện đại, tác giả khuyến khích tiêu thụ vừa đủ tài nguyên và có cải tạo cân bằng.
  • Thay vì khuyến khích các trường “dạy nghề” như đại học hiện đại, tác giả đã cùng thành lập những trung tâm đào tạo hướng tới sự khám phá bản chất sâu sa bên trong mỗi cá nhân nhờ hệ thống giáo dục Phật giáo.
  • Thay vì bất mãn với thể chế chính trị và bạo lực cách mạng, tác giả hướng tới sự thay đổi bên trong xã hội và các biện pháp bất bạo động.
…..
Ngài Sulam Sivaraksa người Siam mang tới nhiều góc nhìn thú vị về các thiết chế hiện đại, về đất nước Siam (Thái Lan) quê hương của ngài. Trong cuốn sách cũng có nhắc tới sự học hỏi của ngài với ngài Thích Nhất Hạnh, người Việt.
Một cuốn sách nhỏ rất đáng đọc với tất cả mọi người, đặc biệt các doanh nhân hiện tại mọi ngành nghề!
Hà Nội, 18-8-2021

Bài viết KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO – Minh triết của sự bền vững đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/kinh-te-hoc-phat-giao-minh-triet-cua-su-ben-vung-260/feed/ 0 260
NHÂN SINH NHƯ HUYỄN – Một suy nghĩ về sự tồn tại thực sự https://nghianb.org/nhan-sinh-nhu-huyen-mot-suy-nghi-ve-su-ton-tai-thuc-su-147/ https://nghianb.org/nhan-sinh-nhu-huyen-mot-suy-nghi-ve-su-ton-tai-thuc-su-147/#respond Sat, 27 Mar 2021 10:10:45 +0000 https://nghianb.org/?p=147 Nếu quả thực chúng ta đang tồn tại thực sự thì hẳn những vi sinh vật nhỏ bé như virus, vi khuẩn, nấm, sinh vật đơn bào,…. cũng đang thực sự tồn tại! Và nếu như điều đó đúng thì chẳng phải nghi ngờ gì về câu “Nhân sinh như Huyễn” cả. Cuộc đời trungXem thêm

Bài viết NHÂN SINH NHƯ HUYỄN – Một suy nghĩ về sự tồn tại thực sự đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Nếu quả thực chúng ta đang tồn tại thực sự thì hẳn những vi sinh vật nhỏ bé như virus, vi khuẩn, nấm, sinh vật đơn bào,…. cũng đang thực sự tồn tại!

Và nếu như điều đó đúng thì chẳng phải nghi ngờ gì về câu “Nhân sinh như Huyễn” cả.

Cuộc đời trung bình của 1 con vi khuẩn được tính bằng khoảng 12 giờ đồng hồ, trong khi vòng đời của 1 con muỗi chỉ tương đương với 1 kỳ nghỉ Tết (khoảng 7 ngày) Và 60 năm cuộc đời của con người thậm chí không bằng 1 cái chớp mắt của vũ trụ mênh mông….

Nếu chỉ nhìn thấy sự tồn tại như nó đang tồn tại qua lục căn (mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi cảm nhận, cơ thể cảm giác, trí năng nhận biết) thì sớm muộn chúng ta cũng sẽ phải than vãn về sự vô nghĩa của 1 kiếp nhân sinh vì Nhân sinh không những Như Huyễn mà còn có thể nói là Trống rỗng, không mục đích, không ý nghĩa, … không gì hết! Đó cũng là lúc nhiều người lạc vào chủ nghĩ hư vô!

Suy nghĩ tới đây, tôi bỗng nảy ra một ý tưởng về “Sự tồn tại thực sự” của mình!

Tôi nghĩ rằng Sự tồn tại của một cá thể thực sự vô nghĩa và không thể nhìn nhận đúng về “sự tồn tại thực sự” nếu như chỉ đánh giá sự tồn tại chả một cá thể trong loài, rộng hơn nữa là 1 loài trong vô số loài, rộng hơn nữa là 1 thế giới trong vô vàn thế giới…

Phật giáo giảng về Nhân Duyên và bản chất của sự tồn tại chính là sự phụ thuộc qua lại giữa các thành tố cơ bản. Ở đây, thành tố cơ bản cũng chẳng phải những yếu tố như sắt, thép, protein, lipid…. mà là những Nhân duyên. Nhân duyên cũng có Quá khứ (Vô minh, Hành) – Hiện tại (Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu) – Tương lai (Sinh, Lão tử). Sự hình thành của hiện tại bởi Nhân Duyên quá khứ, tương tự vậy với Tương lai. Vì ngày mai sẽ trở thành hôm nay và rồi sẽ thành ngày hôm qua, nhanh thôi!

12-nhan-duyen-phat-giao

Điều mấu chốt của vấn đề tồn tại thực sự không nằm ở việc chúng ta có đang thở hay không mà tôi tin rằng đó là Nhân duyên chúng ta đang tạo tác cho giống loài và thế giới của chúng ta bây giờ có thực sự đảm bảo cho nó có một tương lai chắc chắn hay không, và câu hỏi trong tương lai cũng giống như vậy.
Khi suy nghĩ như vậy, rõ ràng một người dần dần thoát ra khỏi suy nghĩ thô sơ nhất về sự tồn tại đơn thuần, về sự tồn tại của bản thân. Suy nghĩ đó hướng tôi tới Sự tồn tại của một giống loài, sự tồn tại của một thế giới và sự tồn tại của hàng triệu thế giới khác nữa. Và điều đó cũng buộc chúng ts phải suy nghĩ, hành động trong tâm thái vì nhưng người khác, vì cộng đồng, và cao hơn cả như Đức Phật dạy vì Vạn vật hữu tình và rằng sinh vật nào cũng có Phật tính.

Một bài nào đó, chúng ta sẽ chia sẻ nhiều hơn về Phật tính!

Kết lại của suy nghĩ về sự tồn tại, thi thoảng tôi vẫn nghĩ nên dạy trẻ con và tôi thực sự đã đối thoại nghiêm túc với con gái tôi rằng “con hãy luôn ghi nhớ trong đầu rằng sở dĩ con có thể cảm nhận được tình yêu của bố dành cho con là bởi bên trong con có một tâm hồn. Và tất nhiên cô bé cũng được ai đó dạy rằng chúng ta suy nghĩ bằng cái đầu, có não trái để làm toán, não phải để sáng tạo… thì tôi sẽ bồi thêm là có một tâm hồn để yêu thương nữa con ạ! Đâu đó, trong những câu chuyện với trẻ con, vẫn nên chia sẻ những quan điểm về sự tồn tại thực sự vì tôi đã thử trên một vài trẻ rồi nhận thấy khả năng tiếp thu những điều khó tin đó của các con là tuyệt vời và trên cả tuyệt vời nếu trẻ con nào cũng được trang bị những ý niệm về sự tồn tại thực sự và ý nghĩa của cuộc sống này”

Sài Gòn – 26/3/2021
#nghianb.org

Bài viết NHÂN SINH NHƯ HUYỄN – Một suy nghĩ về sự tồn tại thực sự đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/nhan-sinh-nhu-huyen-mot-suy-nghi-ve-su-ton-tai-thuc-su-147/feed/ 0 147
Tản mạn Phật giáo và những câu hỏi thường gặp https://nghianb.org/tan-man-phat-giao-va-nhung-cau-hoi-thuong-gap-111/ https://nghianb.org/tan-man-phat-giao-va-nhung-cau-hoi-thuong-gap-111/#respond Sat, 21 Nov 2020 14:20:01 +0000 https://nghianb.org/?p=111 Một chút hiểu biết về Tính không bằng vài năm học triết và khoa học thông thường. Một niệm Bồ đề phát ra có hiệu lực hơn việc bố thí cả tiền bạc châu báu trăm lần. Ấy là những gì tôi đọc và nghĩ nó đúng, ít nhất không cần dùng lý trí đểXem thêm

Bài viết Tản mạn Phật giáo và những câu hỏi thường gặp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Một chút hiểu biết về Tính không bằng vài năm học triết và khoa học thông thường. Một niệm Bồ đề phát ra có hiệu lực hơn việc bố thí cả tiền bạc châu báu trăm lần. Ấy là những gì tôi đọc và nghĩ nó đúng, ít nhất không cần dùng lý trí để hỏi đúng sai mà tự bên trong nhận thấy những nghiệm chứng mơ hồ.

thay-tu-va-phat
Đức Phật và Người tu hành
  • Phật giáo mang họ gì ?

Nếu người con mang họ của Cha thì Phật giáo mang họ Bồ đề với Bồ đề tâm là Cha và Trí tuệ tính không là Mẹ. Có cả cha cả mẹ mới có con.

  • Phật giáo có nhiều phái không?

Mặc dù hiện tại nhiều người chia Phật giáo ra thành nhiều phái khác nhau, Nam – Bắc, Tiểu – Đại, Mật – Hiển… nhưng suy cho cùng thì cũng chỉ là những phương pháp tiếp cận khác nhau phù hợp với những sinh linh đại đồng nơi đó. Bản chất Tôn giáo vẫn là phần Thấy để truyền tải những điều không thấy theo cách “Đời” nhất.

  • Có phải cứ niệm Phật là sẽ thoát khổ ?

Tịnh độ tông sử dụng phương pháp tụng niệm hồng danh của Phật để được lợi lạc và nâng đỡ, để hồi hướng bản thân. Tuy nhiên, nghĩ sao nếu niệm Phật nhưng đầu óc bộn bề mưu toan, thủ đoạn,… Có lần tôi được nghe ai đó kể về việc đi tới 1 buổi giảng giải của ai đó về cách để trừ nghiệp xấu của 1 vị Phật tử, được hướng dẫn cứ có tội lỗi gì thì tối về quay mặt hướng Tây và niệm gì đó (tôi không nhớ). Tôi nghĩ là điều đó không hiệu quả hoặc có thì hiệu quả rất thấp, không thấy rõ được. Niệm Phật phải kết hợp được với Giới – Định – Huệ mới thực sự có hiệu lực. Ấy là những gì tôi từng nghiệm thấy với mình, còn nhiều thứ khác nữa, nhưng không thể chia sẻ hết.

  • Phật giáo có phải Tôn giáo không ?

Đúng vậy nhưng không chỉ vậy. Tôi thấy đây là một môn triết học và khoa học mà bản thân tôi vận dụng trong mọi khía cạnh cuộc sống đều thấy đúng, ít nhất là tới bây giờ dù trình độ còn rất kém cỏi.

  • Nếu coi Phật giáo là môn khoa học thì Phật giáo sẽ gần nhất với môn khoa học gì?

Tôi thấy giống với Triết học và Vật lý học nhất. Mà thực ra cũng không nên quá rạch ròi giữa môn này với môn kia, đôi khi khiến cho các bạn học sinh thích môn nọ mà sợ môn kia, thực tế chúng đều là Khoa học cuộc sống và môn này hỗ trợ môn kia.

  • Người học Phật có phải là mê tín không ?

Không.

Như đã nói trên đây, Phật giáo thực chất cũng là một môn khoa học, một phương tiện được tổ chức một cách hệ thống. Nhưng khác với các môn khoa học thường thấy, mục đích của môn này là giải thoát toàn bộ tiềm năng bên trong con người bao gồm cả 95% phần não chưa được khai thác, không chỉ vậy, còn giúp giải quyết triệt để bài toán lớn “Chúng ta sinh ra từ đâu? Tới đây làm gì?”. Không vị thần nào giúp chúng ta giải đáp câu hỏi đó, chỉ có tiếng nói bên trong mà thôi. Và tôi tin Phật giáo được học tập và thực hành đúng cách sẽ giúp đánh thức tiếng nói bên trong, ngày một rõ rệt.

Về vấn đề mê tín. Bản thân chữ “mê” có vẻ như mang nghĩa tiêu cực rồi, đi ngược hẳn với những thứ tốt đẹp mà Phật giáo chính thống nói tới. Phật giáo chính thống khuyến khích phản biện, khuyến khích đặt câu hỏi, khuyến khích tỉnh thức, khuyến khích từ bỏ những thứ chấp ngã, mê muội, tham-sân-si. Nên chắc chắn người rèn luyện Phật giáo chính thống không phải là người mê tín.

DS-Nghia-ngoi-thien-o-myanmar
Tác giả ngồi trong 1 chuyến hành hương về Myanmar
  • Hình tượng nào mô tả đúng nhất về Giáo lý Phật ?

Trong Bát nhã ba la mật – trái tim của Kinh Phật, có câu cuối “Yết đế Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha” có thể hiểu là “Hãy vượt qua, vượt qua đi, qua bờ bên kia đi, qua bờ bên kia hoàn toàn sẽ đạt đến giác ngộ. Ngài khéo nói như vậy”. Và đó là lời Đức Phật nói về hình ảnh Phật giáo là giáo lý sẽ đưa người tu qua được bến bờ đạt giác ngộ. Để qua được đó, giáo lý này được ví như chiếc bè, thuần thục nó, nắm lấy nó sẽ có phương tiện để đạt tới giác ngộ hoàn toàn, hay trở thành bậc toàn giác, trở thành vị Phật mới. Vậy hình ảnh Chiếc bè là hình ảnh so sánh đơn giản và gần gũi nhất với Phật giáo, do đó Giáo lý Phật còn được so sánh với Giáo lý chiếc bè.

  • Có phải có 1 vị Phật duy nhất tồn tại không?

Không phải. Trong lịch sử đã ghi nhận nhiều vị Phật và thực tế tùy nền văn hóa Phật giáo mỗi địa phương cũng đang thờ tụng nhiều vị Phật, nhiều vị Bồ Tát khác nhau. Và trong truyền thống Phật giáo, mỗi chúng sinh đều có thể tu luyện để trở thành 1 vị Bồ Tát, 1 vị Phật. Câu nói quen thuộc của Phật tử là “Phật ở trong tâm” không chỉ có ý nghĩa nhắc nhở về sự chân thành của một người khi nghĩ tới Phật mà còn có ý nghĩa là sâu thẳm trong mỗi cá thể cũng là một vị Phật, hãy để vị Phật đó bộc lộ ra ngoài qua con đường tu thập chính thống, điều đó là khả thi và ai cũng có thể làm được.

  • Tại sao phân biệt Tiểu thừa, Đại thừa? Có sự thờ phụng khác nhau giữa hai tông phái này?

Tiểu thừa hay Đại thừa đều là Phật giáo, nhưng có điều là các phương pháp tu tập và mục đích giải thoát khác nhau. Tiểu thừa hướng tới giải thoát và đạt niết bàn cho người tu hành. Trong khi đó, phát nguyện Đại thừa là nguyện lớn, nguyện giải thoát cho mọi chúng sinh. Tùy vào căn cơ và mục đích mà sẽ có duyên với con đường phù hợp, có vẻ như nó là sự phù hợp chứ không giống sự lựa chọn một cách gượng ép, có chủ đích.

Việc hai tông phái này có thể có những tượng Phật, La Hán, Bồ Tát khác nhau cũng là bình thường. Ngay cả trong 1 tông phái cũng có thể có những hình tướng khác nhau cho các vị ấy. Chẳng hạn như Avalokiteshvara hay còn gọi là Quán thế âm Bồ Tát, có khi là hình tượng 1 vị phật có 4 tay, có khi là hình tượng vị Phật bà quan Âm như trong phim Tây Du Ký, chúng ta thường xem…. Về cơ bản, Phật pháp khuyến khích người theo học “nhìn thấy Tính” chứ không nên “chấp vào tướng” có nghĩa là thấy rõ bản chất của một sự vật, hiện tượng thay vì coi sự vật hiện tượng là cái thấy. Cho nên, sự khác biệt về hình tướng là hết sức bình thường, hãy cố gắng tìm hiểu bản chất thay vì chấp vào hình tướng.

Để cho dễ hiểu với đại đa số chúng ta, tôi có thể lấy ví dụ, khi chúng tôi tạo ra sản phẩm Súc họng miệng PlasmaKare. Bản thân nước súc miệng này dạng lỏng, màu vàng nâu, có cấu tạo từ nước + TSN + Keo ong… được đựng trong 1 chai nhựa hoặc túi, sau đó lại được đặt trong 1 hộp giấy. Mọi người sẽ sử dụng nó và gọi là “Súc họng miệng PlasmaKare” nhưng PlasmaKare không phải bản chất của sản phẩm đó. Bản chất của nó là một thứ giúp sát trùng, chống viêm, giảm loét dùng để chữa một số bệnh lý nhiễm trùng tại họng, miệng cho người. Nếu sau này có một ai đó cũng làm ra 1 thứ y chang như vậy nhưng đặt tên khác đi như “Súc họng miệng Plasma” với cùng công thức cấu tạo, đôi khi người tiêu dùng cũng sẽ bị nhầm lẫn nó là thứ khác, thực tế bản chất nó giống nhau. Có chăng khác nhau thì đó là từ mục đích của người tạo ra nó, 1 bên là tạo ra với tình yêu và khát vọng giúp đỡ, 1 bên tạo ra để thuần túy bắt chước bán hàng thu lợi nhuận. Vậy, phần mục đích đằng sau mới là cái khó thấy chứ không phải cái sự thấy trước mắt. Với từng mức độ nhận thức khác nhau, người tu tập sẽ “Thấy” những thứ ở các cấp độ thâm sâu hơn.

….

chiec-o-o-myanmar
Hình ảnh chụp tại Myanmar trong 1 chuyến đi

Còn nhiều câu hỏi nữa xung quanh việc tìm hiểu về Phật giáo hoặc bất kỳ một tôn giáo nào. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ muốn chia sẻ dần dần với người đọc. Trong sự hiểu biết có hạn của một người thậm chí chưa quy y như bản thân tôi, sẽ có nhiều thứ gây khó hiểu hoặc sai sót, rất mong sự góp ý chân thành của bạn hữu và hoan hỉ từ những phản biện.

Nguyễn Bá Nghĩa

Hà Nội, 21 tháng 10 năm 2020

Bài viết Tản mạn Phật giáo và những câu hỏi thường gặp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/tan-man-phat-giao-va-nhung-cau-hoi-thuong-gap-111/feed/ 0 111
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh và Ý nghĩa sâu sắc https://nghianb.org/bat-nha-ba-la-mat-da-tam-kinh-va-y-nghia-sau-sac-21/ https://nghianb.org/bat-nha-ba-la-mat-da-tam-kinh-va-y-nghia-sau-sac-21/#respond Thu, 24 Sep 2020 20:11:27 +0000 https://nghianb.org/?p=21 Trong tất cả kinh điển Phật giáo, có thể nói “Bát nhã tâm kinh” hay “Bát nhã ba la mật tâm kinh” được coi là trái tim của giáo pháp. Việc lắng nghe, ghi nhớ, tìm hiểu, nghiệm chứng và thiền quán theo Tâm kinh thực sự giúp ích cho tất cả hữu tình muốnXem thêm

Bài viết Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh và Ý nghĩa sâu sắc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Trong tất cả kinh điển Phật giáo, có thể nói “Bát nhã tâm kinh” hay “Bát nhã ba la mật tâm kinh” được coi là trái tim của giáo pháp. Việc lắng nghe, ghi nhớ, tìm hiểu, nghiệm chứng và thiền quán theo Tâm kinh thực sự giúp ích cho tất cả hữu tình muốn tìm về bản thể cội nguồn và khai phá mạnh mẽ bản năng Huệ giác trong mỗi chúng sinh.

bat-nha-ba-la-mat-tam-kinh

Tôi có cơ duyên tiếp xúc với Phật pháp từ rất sớm, ngay từ khi chưa biết đọc biết viết đã có cơ duyên với chùa trong xóm. Rồi khi lớn lên, những cuốn sách vô tình rơi vào tay tôi từ khi tôi còn là cậu bé cấp 1, cấp 2 là những cuốn sách về Hán Việt, những cuốn sách về Thiền, về đủ thứ có liên quan ít nhiều tới Phật pháp.

Những biến cố trong cuộc đời của tôi từ khi sinh ra là một cậu bé ốm yếu, lớn lên chiến đấu với bệnh tật và đủ thứ bất công trong gia đình, trong trường lớp, trong xã hội… Dần dà, hun đúc trong tôi lòng trắc ẩn, tinh thần hướng đạo và lòng ái mộ với những người giảng Pháp như thầy Thích Nhất Hạnh hay rất nhiều bậc minh triết khác mà tôi chưa bao giờ có cơ duyên gặp gỡ trực tiếp, chỉ đọc qua các giáo Pháp, sách in của Người. Vậy nhưng, chẳng phải Phật dạy chúng ta về Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Và rằng, đừng chấp vào hình tướng và đừng nhìn Phật như là thân thể của ngài. Ai thấy Phật qua các Pháp và qua các không pháp mới là thấy Phật. Trong sách về Đông Mật, tôi cũng từng được nghe nói rằng, các ngôi chùa chỉ có các chủng tự tử đại diện cho mỗi vị Phật, và hình như mỗi vị Phật được đại diện bởi các Pháp.

Càng đọc, càng nghe Bát nhã ba la mật tâm kinh, mỗi người sẽ càng sáng tỏ thêm trí tuệ thâm sâu. Ứng dụng của Tâm kinh là vô cùng to lớn, trong mọi mặt của đời sống này, cả trong công việc, trong cuộc sống, trong nghiên cứu… cả trong sắc và vô sắc, ngã và vô ngã, thể xác và linh hồn…

Hãy cùng lắng nghe mỗi ngày Tâm Kinh này.

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chílão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

Bài viết Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh và Ý nghĩa sâu sắc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/bat-nha-ba-la-mat-da-tam-kinh-va-y-nghia-sau-sac-21/feed/ 0 21