Tâm linh & Phật giáo Archives - Nghĩa NB Blog cá nhân của Nghĩa NB Tue, 24 Jun 2025 15:40:35 +0000 vi hourly 1 Đi tìm ý nghĩa của sự sinh sản – sự sống từ đó đến https://nghianb.org/di-tim-y-nghia-cua-su-sinh-san-su-song-tu-do-den-814/ https://nghianb.org/di-tim-y-nghia-cua-su-sinh-san-su-song-tu-do-den-814/#respond Tue, 24 Jun 2025 15:40:35 +0000 https://nghianb.org/?p=814 “Có một dục vọng đáng lo ngại thúc đẩy con người: tạo ra bản sao nhân tạo của chính mình, theo cách Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chính Ngài” – Trích từ “Trí tuệ nhân tạo hay Thách thức thể kỷ” – Tác giả Eric Sadin, một trong những nhàXem thêm

Bài viết Đi tìm ý nghĩa của sự sinh sản – sự sống từ đó đến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
“Có một dục vọng đáng lo ngại thúc đẩy con người: tạo ra bản sao nhân tạo của chính mình, theo cách Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chính Ngài” – Trích từ “Trí tuệ nhân tạo hay Thách thức thể kỷ” – Tác giả Eric Sadin, một trong những nhà tư tưởng hàng đầu về trí tuệ nhân tạo, thứ được ông mô tả là sức mạnh Alethique, nghĩa là Sự thật trong tiếng Hy Lạp.

Tại sao chúng ta sống?

Tôi bắt đầu đặt câu hỏi này khi vào quảng 10 tuổi, bắt đầu đối mặt với một xã hội thu nhỏ trong gia đình, hàng xóm, lớp học… một cách thường xuyên hơn và tự lập suy nghĩ hơn, và cũng chuẩn bị vào hành trình kiên trì thiền định hàng ngày. Từ hồi đó tôi trải qua nhiều mặc khải về sự sống, về cái chết thông qua những hoàn cảnh đặc biệt, những giấc mơ, những sự kiện nổi bật trong đời. Tuy nhiên, tôi vẫn khuyên một vài người quen khi được hỏi rằng “Sự sống nhất định có ý nghĩa của nó, nhưng vấn đề là ta không nhất thiết phải hiểu cặn kẽ ý nghĩa của ta là gì để chấm dứt hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Điều gì xảy ra sau khi ta thực sự tìm được câu trả lời mà ta cho rằng đúng đắn về ý nghĩa cuộc sống của bản thân? Hãy suy nghĩ về điều đó. Trong khi đó, hãy tận hưởng từng giây phút sống, đón nhận mọi thứ dù thành công, thất bại, nhục nhã hay vinh quang, vui hay buồn….”

Hầu hết nền văn hóa trên thế giới, tôn giáo, nhà khoa học, nhà thần học, nhà triết học… tự cổ chí kim đều đặt câu hỏi này và có thể chia ra thành một số câu trả lời cơ bản như sau.

  • Không có ý nghĩa gì đặc biệt ẩn sau việc chúng ta được sinh ra, mọi thứ xảy ra đều là từ các phản ứng sinh – hóa, ngay cả suy nghĩ để tạo ra các dòng chữ này cũng là một loạt những phản ứng sinh hóa xảy ra trong hệ thần kinh dẫn truyền tới các cơ quan liên quan tới việc đánh máy, nhìn, suy nghĩ. Cuộc sống bị chi phối bởi các phản ứng hóa học diễn ra một cách ngẫu nhiên và không có định hướng.
  • Sigmund Freud, trong lý thuyết phân tâm học của mình, không đưa ra một “ý nghĩa triết học lớn lao của cuộc sống”, mà thay vào đó khám phá những động lực và thúc đẩy vô thức hình thành nên hành vi của con người. Ông cho rằng cuộc sống là cuộc đấu tranh liên tục giữa Eros (bản năng sống) và Thanatos (bản năng chết), với những cá nhân tìm kiếm khoái lạc và sự sống còn trong khi cũng có động lực tiềm thức hướng tới cái chết và sự hủy diệt.
  • Carl Gustav Jung tin rằng ý nghĩa của cuộc sống nằm ở hành trình cá thể hóa, là quá trình tích hợp mọi khía cạnh của bản thân, bao gồm cả vô thức, để đạt được cảm giác toàn vẹn và mục đích. Điều này bao gồm việc đối mặt với bóng tối, chấp nhận nghịch lý và nhận ra tiềm năng độc đáo của một người. Jung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối mặt với những câu hỏi hiện sinh, như ý nghĩa của sự sống và cái chết, để tìm ra ý nghĩa trong thế giới này.
  • Viktor Frankl, người sáng lập ra liệu pháp ý nghĩa và là tác giả của “Man’s Search for Meaning”, tin rằng ý nghĩa của cuộc sống không phải là một chân lý phổ quát mà là một chân lý cá nhân được khám phá thông qua việc tìm kiếm mục đích và chịu trách nhiệm. Ông lập luận rằng ý nghĩa có thể được tìm thấy trong công việc sáng tạo, trải nghiệm tình yêu và các mối quan hệ, và thậm chí trong cách một người đối mặt với đau khổ không thể tránh khỏi. Frankl nhấn mạnh rằng ngay cả khi đối mặt với khó khăn cùng cực, các cá nhân vẫn giữ được quyền tự do lựa chọn thái độ của mình và tìm thấy ý nghĩa trong hoàn cảnh của họ.
  • Đức Phật thì sao? Đức Phật dạy rằng cuộc sống không có ý nghĩa cố hữu, được định sẵn. Thay vào đó, mỗi cá nhân phải tự tạo ra ý nghĩa của riêng mình thông qua hành động và lựa chọn của mình, và cuối cùng là thông qua sự giải thoát khỏi đau khổ. Điều này bao gồm việc hiểu bản chất của thực tại, bao gồm cả tính vô thường của mọi thứ và vai trò của vô minh và ham muốn trong việc gây ra đau khổ.
  • Lời dạy của Chúa Jesus về ý nghĩa của cuộc sống tập trung vào mối quan hệ với Chúa và tập trung vào tình yêu và sự phục vụ. Ngài nhấn mạnh rằng ý nghĩa thực sự của cuộc sống được tìm thấy trong việc biết và tận hưởng Chúa, và phản ánh tình yêu của Ngài trên thế giới thông qua các việc làm tốt. Ngài cũng nhấn mạnh khái niệm về sự sống vĩnh cửu, có được thông qua đức tin vào Ngài, mang đến một số phận vượt ra ngoài sự tồn tại trần gian.
  • Lời dạy của Tiên tri Muhammad nhấn mạnh rằng ý nghĩa của cuộc sống nằm ở việc tuân theo ý muốn của Chúa và phục vụ Ngài. Điều này bao gồm việc nhận ra tính thiêng liêng của cuộc sống con người, sống một cuộc sống có mục đích và phấn đấu để phát triển tâm linh. Cuối cùng, mục tiêu là chuẩn bị cho cuộc sống sau này và giành được sự ưu ái của Đức Chúa Trời.

Tại sao có ham muốn sinh sản?

Nhắc tới ý nghĩa sự sống có thể chúng ta sẽ không thể bỏ qua được câu hỏi vốn dĩ đi ngay cùng với nó “Tại sao có ham muốn sinh sản” “Sự sinh sản mang ý nghĩa gì ngoài việc truyền lại những năng lượng được đóng khung trong mật mã mang tên gen di truyền?”

Chúng ta lặp lại ý tưởng về sức mạnh của sự thật mà Eric Sadin phát biểu “Có một dục vọng đáng lo ngại thúc đẩy con người: tạo ra bản sao nhân tạo của chính mình, theo cách Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chính Ngài” đã nêu ra trong đầu bài viết này như một lời nhắc nhở với tất cả rằng, đây là một dục vọng cơ bản của con người, tuy nhiên, dục vọng này không phải thuần túy lý tính, nó là một dục vọng có thể coi như dục vọng nguyên thủy đã được đặt trong bộ gen mã hóa khi “Chúa” tạo ra con người dưới hình hài của chính mình. Vậy, nếu Chúa Trời tạo ra con người với hình hài và những xung động, DNA, bộ gen… như thế này thì Chúa Trời có sinh sản không? Và nếu có thì theo cách như thế nào? Để trả lời câu hỏi này có lẽ, các nhà sinh học sẽ là những người hào hứng nhất vì họ có trong tay dữ liệu về mọi loại hình sinh sản trên trái đất theo hiểu biết tới thời điểm hiện tại, ít nhất là các dạng sống Carbon (biết đâu đấy, có những dạng sống không carbon và không tồn tại trên trái đất hoặc trong điều kiện khắc nghiệt, dưới lòng đất, hay dưới đáy đại dương chẳng hạn). Tuy nhiên, những câu hỏi có liên quan tới phậm trù tôn giáo thì không phải dễ dàng được chấp nhận hoặc thậm chí xem xét nên chúng ta bỏ qua và chỉ nói về con người thôi.

Không khó để thấy trong chính bản năng của chúng ta, trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi dòng họ bất kể mọi tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ học vấn, nền văn hóa, quốc gia, ngôn ngữ, màu da, nhóm máu… chúng ta đều có thể đâu đó tìm thấy ý tưởng về ý muốn sinh sản trong mỗi người. Không bàn sâu về phạm trù sinh học, trong phạm trù tinh thần trở lên sẽ gần với phạm trù ý thức và vô thức hơn ta thấy rằng.

Khát vọng tạo ra một phiên bản giống như bản thân là một động lực đáng kể nhất để con người sinh sản. Hãy nhìn xung quanh mà xem, khi một đứa trẻ ra đời, người ta thường không nhìn nó như chính nó, một số người sẽ nói nó giống bố, một số người nói nó giống mẹ, một số người nói nó giống ông, giống bà… lớn hơn một chút họ bắt đầu nói đứa trẻ có chi tiết này giống người này, chi tiết kia giống người kia. Nếu giống chính người nói, họ lúc nào cũng vui hơn, còn nếu giống một người mà họ không ưa, họ không vui nữa…. Rồi cũng nhìn xem, có mấy ai tự chê con mình xấu, con mình hư, con mình dốt (thật lòng nhé, hình thức thì nhiều). Vì họ nghĩ điều đó đang nói về chính mình, vì con họ là hình hài của họ tạo ra giống như cách Chúa tạo ra con người vậy. Thật không may cho con người rằng họ là động vật sinh sản có tính, sự kết hợp của 2 bộ gen khác nhau tạo ra một đứa trẻ nên về cơ bản, nó sẽ không bao giờ chỉ giống một trong hai người, luôn có tỷ lệ về cả ngoại hình lẫn tính cách, về cả thể chất lẫn tinh thần, thậm chí tôi tin rằng bộ gen hiện hữu trong mỗi người là kết hợp tích lũy trường thông tin qua nhiều đời, nhiều kiếp theo chiều dọc của từng dòng họ. Điều đó cũng thôi thúc con người khám phá bản thân và tìm về cội nguồn mãnh liệt. Những đứa trẻ mồ côi được nuôi dưỡng bởi các gia đình tử tế, khi trưởng thành vẫn thường có một nỗi khắc khoải không thể diễn tả sâu bên trong khi mong muốn tìm về cội nguồn chín muồi và trỗi dậy. Điều này một lần nữa được nhận thức sâu sắc và phát biểu năm 1984 bởi George Orwell “cách hiệu quả nhất để hủy hoại một dân tộc (people) là phủ nhận và xóa bỏ sự hiểu biết của chính họ về lịch sử của họ”. Theo nguyên lý tương ứng “As above So below”, đối với một cá nhân cũng như vậy.

Thời gian – Vị thần hùng mạnh nhất vũ trụ

Một khát vọng khác tiềm ẩn hoặc hiển lộ trong nhiều người, đặc biệt những người đi từ tầng lớp thấp lên các tầng lớp cao hơn đó là khát vọng sinh sôi nảy nở để duy trì sự thịnh vượng khó khăn lắm mới đạt được. Chưa kể, phần chung có một khát vọng vô thức là khát vọng trở nên bất tử, với khát vọng này tất cả đã bị tạo hóa giáng cho một cú tát vào mặt khi gieo vào ý tưởng về sự tồn tại của “Thời gian” mặc dù chính ý thức về thời gian mới thôi thúc khát vọng trở nên bất tử chứ không phải ý thức về sự bất tử tồn tại trước nhận thức về thời gian.

Tôi nhớ trong một câu chuyện thời thơ ấu đọc được về các vị thần hùng mạnh nhất trong vũ trụ thì có rất nhiều vị thần, trong đó có thần sức mạnh với cơ bắp cuồn cuộn… rồi tới một vị thần già nua nhỏ bé tưởng chừng như dễ dàng quật ngã thì lại là người duy nhất không thể suy chuyển. Đó là vị thần tuổi tác (trong trí nhớ của tôi là vậy) nhưng tôi cứ gọi là vị thần thời gian, vị thần hùng mạnh nhất trong vũ trụ các vị thần.

Nếu không phải vì thời gian hạn chế, có lẽ chẳng ai lao vào một cuộc yêu và mau chóng kết hôn, mau chóng sinh sản để lãng phí mất tuổi xuân đang rong chơi vui vẻ. Nếu không vì thời gian, chẳng ai muốn sinh sản khi đang tuổi ăn, tuổi chơi, tuổi học, thậm chí là tuổi đi làm… Lúc nào chán hết rồi đẻ cho vui, cho khỏe. Khi sinh sản, đứa trẻ là gánh nặng của người phụ nữ, nhưng đàn ông thì sẽ bao gồm cả đứa trẻ và người phụ nữ. Hẳn là cả 2 giới đều không muốn giống như nhau, nếu thời gian chẳng tồn tại và cái chớp mắt của Thượng đế không làm con người phải lay động, sợ hãi vì không có khái niệm về thời gian nữa.

Một vài suy tư của tôi về sự sinh sản

Suy nghĩ cá nhân không thể xuất phát từ hư không, mặc dù đó là điều lẽ ra nên là. Nhưng nếu như nó là, có lẽ cá nhân đó đã lại là một Beethoven tiếp theo khi mà những nốt nhạc cứ như chảy từ suối nguồn hư không nào đó tới đầu ngón tay của ông. Tuy nhiên, tôi không phải mẫu người đó, tôi là mẫu người của những sự giằng xé không phải mơ hồ mà luôn rõ ràng, những cuộc chiến bất tận chưa bao giờ ngưng lại và kết thúc tạm thời là sự tái sinh cùng với chiến thắng tạm thời của một mặt nào đó, của sự dễ dãi và sự kỷ luật, của tình yêu và sự thống trị, của vị tha và vị kỷ, của tương lai huyền hoặc và quá khứ u tối rồi kết thúc trong khoảng không trống rỗng hiện tại.

Để có thể nói về chủ đề này, có lẽ phải phơi bày một thực tế về hệ thống niềm tin sâu sắc, không còn là niềm tin, nó trở thành một tôn giáo trong trái tim và là Đức tin như hơi thở là sự sống vậy. Có vài đức tin cơ bản trong tôi: tôi tin răng sự giác ngộ không có chỗ trụ có nghĩa là ý nghĩa cuộc sống của có thể thực sự được thấy khi không còn nơi để quay về khi không còn gì để đối chiếu và so sánh, khi không cần nỗ lực và chỉ có thể cảm nhận trong từng tế bào chứ không thể thấy nó như nó hiển hiện vì vốn dĩ nó không hiển hiện trong các giác quan, nó là một bản nhạc không bao giờ có thể hiển thị với 1 nhạc cụ duy nhất; một đức tin tiếp theo là đức tin vào dòng chảy tâm linh chính là dòng chảy năng lượng bất tận không chỉ trong không gian mà vượt không thời không có bắt đầu hay kết thúc; một đức tin nữa gần gũi hơn với cơ thể vật lý của con người rằng con người được tạo ra mang theo nghiệp của đấng sáng tạo và người này với người khác giống như tay với chân, lông với tóc trên cùng 1 cơ thể. Dĩ nhiên, còn nhiều chi tiết lớn – nhỏ khác nữa nhưng chẳng thể phơi bày hết vì đơn giản đó giống như nước sau khi đã ngấm xuống đất rồi thì ai bảo nó ngấm vào mạch nào nữa đâu, trái hay phải, trên hay dưới, trước hay sau, nông hay cạn, chỉ cần biết rằng mạch nhỏ sẽ chảy vào mạch to, rồi sẽ có suối, sông và mọi con sông đổ về biển lớn như lời nhắc nhở của Mẹ thiên nhiên với đầu óc thô ráp của con người về quy luật tất yếu!

Tôi tin rằng con người được sinh ra có ý nghĩa, mỗi hành động, mỗi khổ đau, mỗi thành công, mỗi thất bại, mỗi mối quan hệ…. Đều ẩn chứa những giá trị của nó và đánh dấu những bài học cũng như phần thưởng của Chúa (tôi dùng từ Chúa không mang theo ý nghĩa tôn giáo chỉ là muốn dùng từ đó để miêu tả một lực sống tự nhiên không rõ ràng, có thể là bất kỳ điều gì tùy thuộc niềm tin của mỗi người, có thể ai đó nghĩ rằng đó là một vị thần Karma nào đó, không có gì đúng và sai, không có gì tốt và xấu ở đây, vậy nên nếu người đọc là người theo Đạo hãy rộng lượng với từ này mà tôi sử dụng, chỉ để đỡ phải viết quá dài một từ hoặc viết quá trừu tượng). Và tôi tin rằng những đứa trẻ đến với một thông điệp có sức nặng đáng kể nhất trong những mối quan hệ vì chúng mang thông điệp từ cõi vô hình, từ nghiệp hành động, nghiệp suy nghĩ, nghiệp tích lũy mà tới. Chúng không tới để chữa lành, và thực tế không ai có thể chữa lành được cho người khác ngoài chính bản thân mỗi người. Sự sinh sản giúp soi sáng những điều ẩn chứa bên trong mỗi người mà vốn dĩ rất khó có thể soi sáng được, đó có thể là những sự đổ vỡ của mối quan hệ bản thân với cha mẹ, với gia đình, nó có thể nhắc nhở về những sai lầm ngay cả trong mong cầu của người cha mẹ sinh ra chúng, nó cũng có thể là một món quà Thượng đế nhắn gửi tới người sinh ra nó với mục đích hãy nuôi lớn nó và ý nguyện đặc biệt của Thượng đế sẽ được thấy thông qua sự tồn tại của đứa trẻ đó. Ngoài ra, về mặt sự tiếp nối của dòng chảy không thời, của thứ mà chúng ta gọi là sự sống giống như 1 giai đoạn ngắn ngủi chuyển giao giữa các sự sống khác nhau với mục đích để chuyển hóa điều gì đó trong vô số dòng chảy tâm linh khác nhau cả chiều ngang lẫn chiều dọc, tôi tin rằng những đứa trẻ là sự tiếp nối của những suy tư, lý tưởng chân thật xuất phát từ những người đàn ông (giống đực) nhờ sự nuôi dưỡng của đàn bà (giống cái) mà thành hình. Nó tới trái đất bởi sự phù hợp trong suy tư, lý tưởng đó giống như di nguyện của người cha và thông qua người mẹ để lớn thành hình hài. Điều này nó thì mơ hồ trừu tượng như có thể hiểu cũng đơn giản như thế này, vì giống đực trong tự nhiên mang trong mình những đặc tính của sự chủ động, hướng ra… giống cái thì mang trong mình đặc tính tự nhiên của sự bị động, hướng vào… Đàn ông có suy nghĩ sẽ tìm kiếm một nơi để tiếp tục dòng dõi là một người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, có khả năng kinh tế… thì họ sẽ chỉ tìm những người như vậy để tiếp tục. Trong khi đó, nhiều người đàn ông khi đã có đủ những thứ đó, họ tìm kiếm một nơi sinh sản mang đặc tính nữ thùy mị, một gia đình với truyền thống, một dòng họ tốt, một người có xu hướng thu mình về chăm sóc thay vì hướng ra. Kết quả là những đứa trẻ sẽ ra đời mang trong mình sự kết hợp của bộ gen 2 người nam – nữ nhưng bộ gen đó được biểu hiện như thế nào thì phụ thuộc cực kỳ lớn vào môi trường bên ngoài, đồ ăn, nước uống, môi trường tâm linh, và hệ vi sinh trên cơ thể, trong đường ruột… đều tham gia vào quá trình biểu hiện gen. Bằng các liệu pháp gen, chúng ta đã phần nào khám phá ra được nhiều ý nghĩa của sự kết hợp tính nam nữ trong quá trình sinh sản. Nhưng đa số các tài liệu cả khoa học, tâm linh, tôn giáo, truyền thống kế thừa từ thời truyền khẩu đều cho thấy những đứa trẻ mang đặc tính thuộc về phần xác thịt vật chất của người mẹ nhiều hơn và mang phần tinh thần của người cha như một cách truyền ý nguyện của người cha trực tiếp tới người con, người con là kẻ cầm ngọn đuốc đó tiếp tục thắp sáng các thế hệ sau này cho người cha, và người mẹ là người hỗ trợ đắc lực để giúp người cha hoàn thành các ý nguyện đó thông qua việc nuôi dưỡng đứa trẻ. Cách hiểu này không hề làm giảm đi giá trị của người nữ hay tăng cường giá trị của người nam, nó chỉ là một cách hiểu mang tính cá nhân về ý nghĩa của sự sinh sản, ý nghĩa của tính nam, nữ theo trực giác tự nhiên.

Trên đây là một vài những tóm tắt và suy tư của cá nhân tôi sau 37 năm bước vào thế giới này trong hình hài một đứa trẻ đỏ hỏn cho tới những năm tháng tiểu học bắt đầu suy tư nhiều về sự sống và cái chết, về các ngôi sao và người ngoài trái đất, về ý nghĩa của sự tồn tại, về thời gian và không gian, cùng với đó là 1 năm với đầy mặc khải mạnh mẽ, kích động tới từng tế bào, gần đây nhất là lần đầu tiên hình ảnh ra đi của chính bản thân để tham gia vào cuộc tái sinh đầy gian nan nhưng vinh quang trong suy tưởng. Tôi được thấy vô vàn thế giới khác nhau và những thực tại rất đỗi mềm dẻo chứ không cứng nhắc như nhiều người thấy trong thực tại này, rằng vạn vật trong vô vàn thế giới đều từ tâm, từ trong tâm thức những hạt giống nảy mầm và bắt đầu sinh sôi cùng với trùng trùng duyên khởi và sinh khởi cùng vô minh ra như thực tại như chúng ta vẫn định nghĩa.

Trải thêm…

Đến bây giờ, niềm tin của tôi về một cuộc đời trở nên mềm dẻo hơn, vì đó không phải là một hành trình ngắn, nó chỉ là 1 đoạn chảy của dòng sông qua 1 khúc cua nhưng trước đó đã hàng ngàn cây số chảy, sau đó dòng chảy dài như bất tận. Quá khứ – Hiện tại – Tương lai không phải sự tiếp nối, tất cả đều đồng thời tồn tại, mọi thứ cùng dao động, mọi thứ cùng thay đổi, không có trước – sau, không có tốt – xấu, không có đúng – sai,… chỉ có điều xảy ra vì nó phải xảy ra, có cây ngô vì ai đó đã gieo hạt ngô vào một mảnh đất đủ màu mỡ.

“Chúng ta có thể trở thành bất cứ thứ gì chúng ta lựa chọn” – nhưng không bao giờ có thể khiến người khác trở thành thứ mà chúng ta lựa chọn.

Và tôi cũng không còn tin rằng con người là một sinh vật lý tính có cảm xúc, mà tin rằng con người là một sinh vật cảm tính có khả năng suy nghĩ. Và rằng con người không phải một cơ thể vật lý có linh hồn, mà thực sự tôi tin rằng con người là một linh hồn tồn tại trong một cơ thể vật lý. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa các cá thể chỉ đúng ở mặt vật lý, còn phần sâu thẳm trong linh hồn, sẽ không có sự phân biệt tách rời hoàn toàn, nó sẽ giống như những phần khác biệt của 1 cơ thể lớn như ngón tay với ngón chân, như một sợi tóc với 1 sợi tóc khác trên cùng 1 mảng da đầu….

Và tìm hiểu sâu về ý nghĩa của sự sinh sản không tách rời việc tìm kiếm ý nghĩa thực sự của sự sống. Nhưng cuối cùng dù có tìm được hay không tìm được, chúng ta vẫn đang sống, vẫn đang tận hưởng từng khoảnh khắc tươi đẹp trên cõi đời và câu trả lời không nhất thiết phải do bạn cố công tìm kiếm mà đến. Nó thường xuất hiện trong những trạng thái tâm mở rộng vô hạn, tình yêu thuần khiết và sự hi sinh thầm lặng vì nó là sự thật cuối cùng nên không phải ai cũng có thể nhận ra, đôi khi, chúng ta dí sát mắt vào 1 bức tường và  chỉ thấy một màu trắng mà không thể nhận ra mắt ta đang đối diện một bức tường. Lùi lại nhiều bước, khiêm nhường, cầu thị, hi sinh, nhẫn nại, vị tha và kiên trì… tất cả sẽ đến cùng một lúc cho những ai chưa thấy mà tin.

Và liệu rằng, khi con người được khai mở thì thế giới như hiện tại chúng ta đang thấy có trải qua một Vụ nổ kỷ Cambri tiếp theo không? Khi mà một giả thuyết cực kỳ thuyết phục về sự phat triển thị lực hiện đại ở khoảng 500 triệu năm trước đã dẫn tới sự phát triển ồ ạt cùng tiến hóa nhanh không tưởng của các loài sinh vật hay hiểu là các dạng sống tiền đề của thế giới vật chất hiện tại. Nếu có điều tương tự như vậy xảy ra trong thế giới của linh hồn thì chúng ta, loài người, bằng việc đi tìm kiếm mọi ý nghĩa của sự sinh sản – ý nghĩa của sự sống, về linh hồn và năng lượng tinh thần sẽ cùng nhau chuyển sang những mô thức dạng sống mới, giống như mô tả trong kinh sách của mọi tôn giáo, giống như Nước Chúa, cõi Tịnh độ, Tây Phương Cực Lạc…

Tôn vinh sự sống và sự sinh sản như ngọn lửa duy trì sự tiếp nối!

Bài viết Đi tìm ý nghĩa của sự sinh sản – sự sống từ đó đến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/di-tim-y-nghia-cua-su-sinh-san-su-song-tu-do-den-814/feed/ 0
Happy Father’s Day, người Cha và các biểu tượng https://nghianb.org/happy-fathers-day-nguoi-cha-va-cac-bieu-tuong-790/ https://nghianb.org/happy-fathers-day-nguoi-cha-va-cac-bieu-tuong-790/#respond Sun, 15 Jun 2025 09:21:27 +0000 https://nghianb.org/?p=790 Nhân ngày của Cha, thử liệt kê sơ qua mẫu hình người Bố trong triết học xem sao. Trong hệ thống thần học, triết học cổ đại cả Đông lẫn Tây đặc biệt nhấn mạnh tính hình tượng, biểu tượng của người Cha. Hoàn toàn không phải mê tín như một số người mượn thầnXem thêm

Bài viết Happy Father’s Day, người Cha và các biểu tượng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Nhân ngày của Cha, thử liệt kê sơ qua mẫu hình người Bố trong triết học xem sao. Trong hệ thống thần học, triết học cổ đại cả Đông lẫn Tây đặc biệt nhấn mạnh tính hình tượng, biểu tượng của người Cha. Hoàn toàn không phải mê tín như một số người mượn thần mượn quỷ để giải thích về tôn giáo, từ Tính Nam, tới Người Cha được các nhà tây lý học, các nhà triết học, thần học mô tả theo nhiều cách khác nhau, có thể là gần với tự nhiên hơn.
Việc mỗi người cha đều hỏi về những đặc tính tự nhiên của Người Cha và sống theo cách đó có thể giúp chúng ta trở thành những phiên bản tốt nhất của người Cha, một dạng thức cao hơn.

1. Triết học Plato

“Người Cha” tương đương với The Good (Thiện Tuyệt Đối) – là nguyên nhân đầu tiên, không thay đổi, không bị giới hạn.
Cha tạo ra thế giới bằng cách phản chiếu ý tưởng thuần khiết (Forms) vào vật chất.

2. Gnosticism

“Người Cha Chân Thật” (True Father) là Thượng Đế ẩn tàng – vượt lên trên các thần thế gian giả tạo (Demiurge).
Trong con người luôn có một tia lửa thần tính (divine spark) từ Người Cha, cần được đánh thức qua tri thức (gnosis).

3. Kabbalah Do Thái

Khái niệm Ein Sof (Vô Hạn) là nguồn gốc tối cao, tương tự như “Người Cha”.
Các emanation (tỏa xuất) từ Ein Sof xuống thế giới là cách mà Người Cha “đổ mình” vào sáng tạo.
Những biểu tượng của người Cha:
  • Mặt trời: ánh sáng tâm linh, người hướng dẫn nội tâm.
  • Trí tuệ: tâm trí của người cha sáng tạo vạn vật.
  • Tia sáng đầu tiên: sự khởi đầu của Thời Không.
  • Logos: quyền năng sáng tạo qua âm thanh, ý niệm.
“I saw in my mind the infinite light, and I was amazed, for it was of great beauty… The light was the Father of the All.” (Corpus Hermeticum I – Poimandres)
Tôi đam mê tìm hiểu về các liệu pháp chăm sóc sức khỏe toàn diện, y học tổng thể, trong đó có nội dung đặc biệt quan trọng là sự hòa hợp giữa thể xác – tinh thần – linh hồn. Việc điều trị cho thân xác ưu tiện lựa chọn các giải pháp tự nhiên, ăn uống, hít thở, ánh sáng… việc điều trị tinh thần ưu tiên sử dụng âm thanh, ánh sáng, sự hiểu biết về kiểm soát dục vọng…. việc điều trị linh hồn ưu tiên những thực hành tâm linh và không phải là phạm vi của tất cả mọi người vì những vấn đề tranh cãi.

Bài viết Happy Father’s Day, người Cha và các biểu tượng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/happy-fathers-day-nguoi-cha-va-cac-bieu-tuong-790/feed/ 0
Bố thí Ba la mật, một chỉ dẫn để việc Bố thí, từ thiện được công đức tròn đầy https://nghianb.org/bo-thi-ba-la-mat-mot-chi-dan-de-viec-bo-thi-tu-thien-duoc-cong-duc-tron-day-702/ https://nghianb.org/bo-thi-ba-la-mat-mot-chi-dan-de-viec-bo-thi-tu-thien-duoc-cong-duc-tron-day-702/#respond Wed, 18 Sep 2024 15:22:37 +0000 https://nghianb.org/?p=702 Tóm tắt ngắn gọn tôi nghĩ rằng chỉ cần hiểu “Bố thí vô tướng, Độ sanh vô ngã” là đủ để thực hành pháp Bố thí ba la mật và có thể giúp lợi lạc cho tất thảy bao gồm cả bản thân được tròn đầy. Thời gian gần đây, những từ như cứu trợ,Xem thêm

Bài viết Bố thí Ba la mật, một chỉ dẫn để việc Bố thí, từ thiện được công đức tròn đầy đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Tóm tắt ngắn gọn tôi nghĩ rằng chỉ cần hiểu “Bố thí vô tướng, Độ sanh vô ngã” là đủ để thực hành pháp Bố thí ba la mật và có thể giúp lợi lạc cho tất thảy bao gồm cả bản thân được tròn đầy.

Thời gian gần đây, những từ như cứu trợ, giúp dân, từ thiện… trở nên phổ biến ở Việt Nam. Trong nhà Phật, có Lục độ ba la mật là 6 pháp tu hàng đầu của Bồ Tát, trong đó pháp Bố thí ba la mật là Pháp đầu tiên trong 6 Pháp bao gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, Trí huệ. Hiểu biết về Bố thí ba la mật sẽ giúp cho việc từ thiện, giúp đời được tròn đầy và công đức trọn vẹn. Sau đây là một vài hướng dẫn, bản thân tôi đã học, đọc, tư duy nhiều năm và thực hành với bản thân để trong lòng cảm thấy viên mãn tròn đầy hơn. Trong bài viết này, tôi không cố gắng diễn giải hết mọi khía cạnh của Bố thí ba la mật như các loại bố thí: tài thí, pháp thí, vô úy thí. Tôi chỉ muốn chia sẻ những khía cạnh cá nhân hi vọng những ai đó cũng có niềm tin sâu sắc vào những điều tốt đẹp, tin Phật và tin vào chánh Pháp có thể chia sẻ được quan điểm nào đó để cùng nhau tinh tấn.

Giống như lời dạy của kinh điển về phương pháp thực hành Phật giáo phải bao gồm: Văn Tư Tu, cụ thể là đọc biết kinh điển, Tư duy về vấn đề nhắc tới trong kinh điển và Tu là thực hành những chỉ dẫn trong các kinh điển để rút ra các nghiệm chứng cá nhân.

Câu chuyện từ cách đây 30 năm

Cách đây 4 năm, khi tôi bắt đầu tham gia nhiều việc thiện nguyện mang tính chủ động hơn, tự giác hơn, có một Phật tử nói với tôi rằng “Từ thiện rất là tốt, nhưng khi nào cháu phải không còn thấy được Người cho, Người nhận và Vật cho thì đó mới thực là Bố thí”. Quả thực, tôi lúc đó đã đọc kinh điển Phật giáo tới hơn 20 năm (tôi bắt đầu đọc ngay khi tôi bắt đầu biết đọc và xem tranh Phật giáo trước khi tôi đi học mẫu giáo, những năm đầu 90) cũng không hiểu vì sao. Bởi vì, nếu không có người cho thì ai cho? Nếu không có người nhận thì ai nhận? Nếu không có vật để cho thì cho cái gì?….

Suy nghĩ sâu sắc về việc này tôi lật trở lại với Tính không của Phật giáo trong đó là cả một đại dương mênh mông những kiến giải với những mê lầm của người thường và vô số lần vấp ngã từ những mê lầm đó. Từ việc dễ dàng sa vào chủ nghĩa hư vô tới việc cực đoan hóa chủ nghĩa duy vật và cuối cùng lần mò tới Trung đạo, với các kiến giải cực kỳ sâu sắc của Ngài Long Thọ. Tôi hoàn thành bộ Trung đạo của ngài Long Thọ năm 2021, ở giai đoạn bắt đầu có những đợt đỉnh điểm của dịch Covid và lúc đó, tôi cùng những người đồng nghiệp và những con người tuyệt vời khác bắt đầu tham gia liên tục các mặt trận giúp bà con trong vùng dịch, từ việc hiến tặng những sản phẩm chống dịch của công ty có sẵn, tặng tiền, chở đồ, giải cứu nông sản, dịch tài liệu chuyên môn với các khuyến cáo để giúp mọi người có cách chăm sóc sức khỏe tốt hơn, bảo vệ bản thân và gia đình tốt hơn. Không có việc gì thấy hữu ích có lợi cho mọi người mà tôi không làm.

Nghĩ lại sau này, tôi thấy lúc đó, quả thực là một cơ hội thực hành không có gì tuyệt vời hơn cho pháp Bố thí ba la mật, đã từng nhiều khoảnh khắc tôi hoàn toàn quên đi bản thân mình là người cho vì lúc đó tôi là một với tất cả đồng bào của mình, tôi cũng quên luôn người mình cho và quên luôn thứ mình cho tất cả những thứ vật chất hữu hình lúc đó trong mắt tôi chỉ là phương tiện thiện xảo để thực hành Pháp bố thí. Công đức lúc đó quả thực tròn đầy, công ty tôi và cá nhân tôi vượt qua giai đoạn gian khó nhất mà tới bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao nữa, vì một doanh nghiệp cực kỳ non trẻ, làm những sản phẩm phù hợp với dịch nhưng chỉ tập trung đi cho chứ không bán, thú thực lúc đó (bây giờ cũng vậy) bản thân tôi phải xoay xở đủ đường để duy trì hoạt động của công ty và duy trì tài chính cho bản thân để nuôi thân, nuôi con, không dư dả chút nào. Sau này, tới tận bây giờ, thi thoảng kế toán vẫn hỏi tôi “hóa đơn của mấy sản phẩm Higado hồi đó lấy rồi trên báo cáo tồn, sếp để đâu rồi. Chẳng giấu gì, hồi đó tôi cho nhân viên, tôi cho bạn tôi là một bác sỹ tuyến đầu chống dịch cùng đồng nghiệp của bạn ấy, tôi cho các bác sỹ đang trực trong viện mà là những người cộng tác với công ty tôi ở thời điểm đó, cho hết rồi” . Quả thực, tôi làm sai luật là không xuất hóa đơn giải trình việc cho tặng đó nhưng tôi nghĩ mình đã làm đúng luật của nhân quả và tạo hóa, tôi đi cho và không nghĩ tới bản thân và nghĩ tới hậu quả mà bản thân có thể phải chịu.

Và tôi tin, rồi tôi áp dụng, đầu tiên là máy móc, sau đó là dần hiểu….

Quả thực, khi nghe cô Phật tử dạy tôi về tính không trong Bố thí ba la mật rằng không có người cho, không có người nhận, không có vật cho. Tôi suy nghĩ và áp dụng sau đó tôi lắng nghe trong sau thẳm tâm hồn để xem sự thay đổi những rung động nhỏ nhất như thế nào, mình có thực sự hạnh phúc khi mình làm vậy không, mình có cảm thấy thoải mái không. Tôi đi làm từ thiện, đi giúp ai tôi giúp trong im lặng, và thực tế là tôi luôn nhớ lời Phật dạy, trong 1 ngày nếu chúng tôi không liên tục để cho những niệm tốt những suy nghĩ về việc phát triển, giúp người nổi lên thì chắc chắn các niệm xấu sẽ nổi dậy, đó là pháp Chánh niệm và việc tinh tấn trong tu tập. Vậy nên, không có lúc nào tôi không nghĩ tới việc hôm nay mình sẽ giúp ai đó, hôm nay mình sẽ phải làm việc gì có lợi cho mọi người, tuần này, tháng này, năm này… cứ như vậy nhiều năm nay liên tục.

Tôi tin rằng, điều đó đã giúp ích đáng kể giúp tôi có sức khỏe và cơ thể như hiện nay tôi có, một cơ tuổi thơ oặt oẹo với không biết bao nhiêu thuốc men, dao kéo trên người, với những vấn đề từ tiêu hóa tới thần kinh. Ngày xưa, một năm trung bình tôi có 12 đợt ốm. Tôi không phải người bi quan nhưng tôi không bao giờ quên có đợt ốm rất nặng cấp 2, tôi nằm trong phòng nhìn ra cửa sổ là gốc cây quỳnh cành dao tự tay tôi trồng, là gốc cây Bưởi ông nội tôi trồng, đợt đó ốm lâu lắm, riêng lúc ốm tôi đọc hết 2 cuốn tiểu thuyết dày, trong đó có 1 cuốn là bá tước Dracula, vẫn còn nhớ cảm giác gai lạnh khi đọc cuốn đó, à, hình như đợt đó tôi còn đọc luôn cả một phần cuốn Ruồi trâu. Cũng có lúc, tôi nghĩ chắc mình sắp chết, chắc lúc đó tôi cũng ám ảnh bởi câu chuyện Chiếc lá cuối cùng nên suy nghĩ đôi khi hơi tiêu cực, mà quả thực mệt quá nên vậy. Lên tới lớp 12 hoặc quanh quanh thời điểm đó, tôi đã biết thế nào là kháng kháng sinh khi cơ thể tôi chỉ bị viêm họng thôi (mặc dù đã cắt amidan trước đó) nhưng chẳng còn đáp ứng với hầu hết các kháng sinh thông thường, bác sỹ cho tôi dùng Tavanic tức Levofloxacin chỉ để điều trị bệnh viêm họng vì tôi đi khám mãi, uống thuốc mãi chẳng khỏi. Tôi cũng không chơi được bóng rổ vì ổ khớp tôi viêm với khô đét lại từ năm đầu đại học (2006), phải tiêm corticoid vào ổ khớp từ lúc đấy, hình như thầy Ân tiêm cho tôi bên Bạch Mai, nếu tôi nhớ không nhầm.

Sau những ngày tháng lăn lộn với mùi thuốc kháng sinh, mùi thuốc sát trùng, dần dà, tâm hồn tôi lắng xuống, tôi bắt đầu có khả năng đau khi nhìn người khác đau, tôi thấy buồn khi nhìn người khác đau khổ, tôi thấy trống trải khi không biết mình sinh ra để làm gì, tôi thấy thương một cái ông béo thường đạp xe trên đường Quang Trung, Hà Đông, khi tôi khi học ở trường Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, vì ông ấy nhìn giống bố tôi, tôi nghĩ, chắc bố tôi bụng to vậy cũng mệt lắm, nặng nhọc lắm. Tôi thấy thương những người đàn bà gầy mòn héo hon, vì họ giống mẹ tôi, chắc bà cũng vất vả lắm, lúc vội đón con trời mưa cũng chỉ có xé túi nilon khoác lên người thay áo mưa để đi cho kịp. Tôi ân hận vô cùng vì hồi đó lắm lúc tôi đã có cảm giác xấu hổ khi mẹ mình nhìn không được sang trọng như mẹ của các bạn khác… Bây giờ, tôi ân hận lắm!

Rồi cứ thế….

Tôi bắt đầu đọc nhiều hơn về Phật pháp, sâu hơn về Tứ diệu đế, Về Bát chánh đạo, Về Lục độ ba la mật, Về thập nhị nhân duyên… Góc nhìn về thế giới của tôi chuyển hóa mạnh mẽ mỗi lần đọc xong một cuốn sách của những bậc thầy tâm linh. Tôi bắt đầu có khả năng cảm nhận tốt hơn, bắt đầu ý thức được sư nông cạn trong tư duy của chính mình, bắt đầu cơ duyên đưa tôi tới những chướng ngại lớn hơn trong cuộc đời, đưa tôi tới những người Thầy có thể cho tôi những lời khuyên mà tôi tin rằng, có ai đó đang dõi theo tôi và cử những người đó trao truyền lại cho tôi để tôi hiểu hơn rằng Mọi trở ngại tôi gặp trong đời mình là biểu hiện thành hình hài của những gì trong tâm tôi, khi tâm mình thông khì mọi thứ cũng thông. Tôi không còn thấy sợ hãi nữa, tôi có nhiều thứ sai lắm, nhiều thứ tôi ngu lắm, nhưng tôi hiểu rằng, mình đang trên đạo lộ của sự khai sáng, mình cần phải dùng những thất bại đó để gọt giữa bản thân, không phải để bỏ cuộc, mà là 1 cơ hội để chinh phục cái tôi, để biết rằng cái tôi cũng là ảo giác từ nhân duyên sinh. Tôi của 10 năm trước và tôi bây giờ, chẳng giống nhau nữa, nhân duyên khác rồi, tôi không phải là tôi đã từng. Miễn là chừng nào còn đi trên con đường đúng đắn, thì không cần sợ hãi.

Khi cùng nhau góp tay xây cầu cho bà con, tôi luôn tự nhủ trong lòng là mình tuân theo những chỉ dụ của Bồ tát trì địa để thực hiện, không phải của mình, không phải cho người, không có gì được cho ở đây cả và mọi thứ tròn đầy. Khi đồng ý chung tay để hỗ trợ bà con bị ảnh hưởng nặng trong cơn bão lũ, chẳng nghĩ mình có thể nhận được gì, cũng hạn chế tối đa hình ảnh với mục đích câu like, câu view, tôi chỉ mong ít người biết tới hoạt động của mình, chỉ muốn những người rất thân thiết và thấu hiểu cùng với tôi chia sẻ được theo sức mỗi người, để cùng nhau chúng ta tạo những thay đổi tích cực, cho chính chúng ta….

Kết!

Túi thuốc được các anh em Đại học Dược Hà Nội nhiều thế hệ ủng hộ, trong đó có tác giả

À, thôi không lan man, cuối cùng thì Bố thí đúng cách theo Phật giáo thì tôi tin rằng chúng ta chỉ cần nhớ, hiểu và áp dụng đúng “Bố thí vô tướng, Độ sanh vô ngã” tức là: khi thực hành pháp bố thí cần phải giữ chân tâm được bình thản, không thấy người cho thì sẽ không đòi hỏi sự báo đáp, không thấy người nhận thì sẽ không cảm thấy dục tính ngã mạn bị nổi dậy, không có cảm giác đang ban ơn, và không thấy vật cho đi là diệt trừ được lòng tham, sự ích kỷ. Bằng cách đó, công đức của chúng ta tròn đầy!

Bài viết là những suy nghĩ lan man và sự đúc rút ngắn gọn trong thời gian đi làm, sống, đọc, tư duy và tìm hiểu. Tôi cũng có những suy nghĩ khác, nhưng chỉ mong muốn tự viết cho mình như một lần đúc kết lại những gì đã qua và những gì đang trải qua để sau này mạnh mẽ hơn khi bước tiếp trên con đường mình đã chọn.

Trong một số bài tới có lẽ tôi sẽ dành thời gian để đúc kết lại những điều cơ bản trong Phật giáo dựa trên đúng phương pháp Văn, Tư, Tu của bản thân đã trải qua, thay vì trích dẫn đơn thuần các kinh điển.

Bài viết Bố thí Ba la mật, một chỉ dẫn để việc Bố thí, từ thiện được công đức tròn đầy đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/bo-thi-ba-la-mat-mot-chi-dan-de-viec-bo-thi-tu-thien-duoc-cong-duc-tron-day-702/feed/ 0
Kiến giải Trung quán luận – Phần Mở đầu https://nghianb.org/kien-giai-trung-quan-luan-phan-mo-dau-588/ https://nghianb.org/kien-giai-trung-quan-luan-phan-mo-dau-588/#respond Tue, 24 Oct 2023 10:14:23 +0000 https://nghianb.org/?p=588 Trong các tác phẩm Phật giáo 4 năm trở lại đây, tôi ấn tượng nhất và bị ảnh hưởng sâu sắc nhất về mặt trí tuệ với Bộ Trung quán luận của ngài Long Thọ. Không phải bởi trong đó tôi tìm thấy con đường giải thoát, không phải bởi nhìn thấy thần thông trongXem thêm

Bài viết Kiến giải Trung quán luận – Phần Mở đầu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Trong các tác phẩm Phật giáo 4 năm trở lại đây, tôi ấn tượng nhất và bị ảnh hưởng sâu sắc nhất về mặt trí tuệ với Bộ Trung quán luận của ngài Long Thọ. Không phải bởi trong đó tôi tìm thấy con đường giải thoát, không phải bởi nhìn thấy thần thông trong đó mà bởi đậm chất trí tuệ uyên thâm, tư duy phản biện sâu sắc tới tận cùng giới hạn của trí tuệ bình thường. Chỉ khi trí óc bị dồn tới đường cùng, thì một dạng trí tuệ hoàn toàn mới mới được phát sinh. Giống như câu “Nước tới tận cùng là thác đổ, người tới đường cùng người hồi sinh vậy”

Mūlamadhyamakakārikā

Tôi thì không phải 1 Phật tử đúng nghĩa như mọi người nghĩ, tôi chỉ là tục nhân bình thường, sống bình thường, làm công việc bình thường và có duyên tìm hiểu, thực hành Phật pháp từ hồi nhỏ, đâu đó khoảng 5-6 tuổi được tiếp cận với những giáo lý của nhà Phật như Tứ diệu đế. Sau đó khoảng 10 tuổi thực tập thiền theo phương pháp trong sách bách khoa toàn thư dạy, có lẽ là 1 phương pháp ngồi thiền theo yoga Ấn Độ nhưng cách quán thiền thì như bên Thiền Tông. Rồi sau đó cứ theo dòng thời gian, cuộc sống cá nhân, học tập, công việc, hôn nhân, gia đình… tất cả mọi trải nghiệm cứ cuốn theo với những góc nhìn đa dạng về cuộc sống, đào sâu vào cái nội tâm tâm hồn, cái bản ngã mà vốn dĩ được tôn sùng thái quá nhất là thời trước 30. Để bây giờ, khi đọc và ngộ ra được gì đó ở cái tầm như trình độ hiện có, tôi lại muốn chia sẻ cho chính tôi ngày sau này đọc và cho những bạn bè có chung những niềm quan tâm nhưng chưa có cơ duyên để tiếp cận và tìm hiểu sâu về tâm linh giống như cách tôi được chỉ dẫn.

Về Trung quán luận

Trung quán luận có tựa đề tiếng Phạn: Mūlamadhyamakakārikā; tựa đề tiếng Tạng là  dbu ma rtsa ba’i tshig le’u byas pa shes rab ches bya ba. Trong đó chữ Trung nghĩa là ở Giữa, thể hiện ý nghĩa sâu sắc của con đường Phật giáo là con đường ở giữa, không có vô cũng không có có, không có sắc cũng không có không sắc, không có già chết cũng không có không già chết… không có trên cũng chẳng có dưới, không có quá khứ – hiện tại – tương lai… Chúng ta luôn ở giữa tất cả những khái niệm mà chúng ta đặt ra, vì căn nghiệp này, chúng ta ở đây, và chúng ta thấy những thứ này. Đó là Phúc, hay là Họa, là Tốt hay là Xấu thì chẳng thế nghĩ bàn, chỉ có thể chấp nhận nó như là nó.

Bộ Trung quán luận không phải một học thuyết hoàn toàn mới của Phật giáo. Tương tự như các bộ luận khác trong kho tàng Phật giáo mà tôi từng tiếp cận, tôi thấy nó cũng giống y chang như cách mà các học giả vẫn thường nói rằng, đó chỉ là những cách diễn giải chi tiết những thứ cốt tủy mà Đức Thích Ca đã đi rao giảng khi còn tại thế. Cũng tương tự như cách mà Đức Phật thuyết giảng rằng “Pháp khả thuyết bất khả Pháp”, tức là Pháp nào mà có thể thuyết giảng được thì đó không phải là Pháp. Muốn hiểu Pháp phải tự mình chứng ngộ, tự mình trải nghiệm và tự mình giác ngộ. Mình phải tự gieo hạt giống và nuôi dưỡng hạt giống giác ngộ đó qua nhiều năm tháng, với nhiều nỗ lực thì hạt giống giác ngộ mới có thể thành cây giác ngộ và đơm hoa, kết quả.

Trung quán luận không đưa ra các câu chuyện về thần linh, về thần thông để người đọc trầm trồ tán thán Phật pháp. Trung quán luận, ngược lại chỉ sử dụng phương pháp tư duy logic thông thường, phép phân tích của Phật giáo và dựa trên nền tảng những gì Phật đã từng giảng nhằm mục đích giúp cho mọi người hiểu được sâu sắc, thuyết phục hoàn toàn bằng trí tuệ và bằng tư duy lý tính về những điều Phật giáo rao giảng. Đó là về thuyết nhân duyên, đó là về tính không, đó là về bản ngã, đó là về thời gian, về sự thay đổi….

Bộ Trung quán luận có 27 chương, để mà có thể hiểu được hết tất cả và thực sự thấm thía thì sẽ phải mất nhiều năm chuyên tâm học hỏi, suy ngẫm, hành thiện. Trong khả năng của mình, với những hiểu biết khiêm tốn, và sự thôi thúc cháy bỏng từ bên trong, tôi mong muốn có thể dành từ 1-2 năm để chia sẻ về ý nghĩa của từng chương trong 27 chương của bộ luận. Như tinh thần đã nói ở trên, chia sẻ cho chính tôi của những ngày sau và chia sẻ cho những người bạn hữu cùng mối quan tâm nhưng chưa đủ nhân duyên để tiếp cận Phật giáo cơ sở hoặc những điều tương tự.

Một điều lưu ý với các bạn bè của tôi, Phật giáo rất khác biệt so với các tôn giáo khác trên thế giới. Xét trên nhiều khía cạnh, Phật giáo thực chất là một môn triết học sâu sắc giúp giải thoát con người khỏi sinh tử, giải thoát khỏi nhà tù do chính tâm tạo tác. Phật giáo cũng là một tôn giáo mà tôi thấy gần gũi hơn cả với Tâm linh và thực tế là 1 con đường để phát triển tâm linh tốt nhất. Sự hiểu biết Phật giáo không chỉ dẫn dắt người ta tới sự hoàn thiện của bản thân từ bên trong tới bên ngoài, nó còn có thể dẫn dắt toàn thế giới sang một thời kỳ tiến hóa tâm linh mãnh liệt mới nếu nhất loạt cộng đồng đều biết tới, tin tưởng và thực hành đầy đủ những điều đúng đắn mà Phật giáo đã chia sẻ.

Bài viết này sẽ chỉ nói chung vậy thôi, hẹn mọi người trong 1 bài viết gần nhất cuối tháng 1 về chương đầu tiên của Trung quán luận.

long-tho

27 chương trong bộ Trung quán luận với 27 luận

  1. Quán nhân duyên(pratyayaparīkṣā)
  2. Quán khứ lai (gatāgataparīkṣā)
  3. Quán lục tình (cakṣurādīndriyaparīkṣā)
  4. Quán ngũ ấm (skandhaparīkṣā)
  5. Quán lục chủng (dhātuparīkṣā)
  6. Quán nhiễm nhiễm (rāgaraktaparīkṣā)
  7. Quán tam tướng (saṃskṛtaparīkṣā)
  8. Quán tác tác giả (karmakārakaparīkṣā)
  9. Quán bản trú (pūrvaparīkṣā)
  10. Quán nhiên khả nhiên (agnīndhanaparīkṣā)
  11. Quán bản tế (pūrvaparakoṭiparīkṣā)
  12. Quán khổ (duḥkhaparīkṣā)
  13. Quán hành (saṃskāraparīkṣā)
  14. Quán hợp (saṃsargaparīkṣā)
  15. Quán hữu vô (svabhāvaparīkṣā)
  16. Quán phọc giải (bandhanamokṣaparīkṣā)
  17. Quán nghiệp (karmaphalaparīkṣā)
  18. Quán pháp (ātmaparīkṣā)
  19. Quán thời (kālaparīkṣā)
  20. Quán nhân quả (sāmagrīparīkṣā)
  21. Quán thành hoại (saṃbhavavibhavaparīkṣā)
  22. Quán Như Lai (tathāgataparīkṣā)
  23. Quán điên đảo (viparyāsaparīkṣā)
  24. Quán tứ đế (āryasatyaparīkṣā)
  25. Quán niết-bàn (nirvāṇaparīkṣā)
  26. Quán thập nhị nhân duyên (dvādaśāṅgaparīkṣā)
  27. Quán tà kiến ( dṛṣṭiparīkṣā)

Nghianb 2023

Bài viết Kiến giải Trung quán luận – Phần Mở đầu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/kien-giai-trung-quan-luan-phan-mo-dau-588/feed/ 0
Thiên tri mệnh và những điều đáng ngẫm https://nghianb.org/thien-tri-menh-va-nhung-dieu-dang-ngam-473/ https://nghianb.org/thien-tri-menh-va-nhung-dieu-dang-ngam-473/#respond Mon, 24 Jul 2023 02:00:16 +0000 https://nghianb.org/?p=473 Sức mạnh của mỗi con người không nằm ở chỗ người đó có thể nâng được vật nặng bao nhiêu, chiến thắng được bao nhiêu kẻ thù. Sức mạnh thực sự nằm ở việc người đó có thể nâng đỡ được bao nhiêu người! Một số điều có thể với ai đó là điều hiểnXem thêm

Bài viết Thiên tri mệnh và những điều đáng ngẫm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Sức mạnh của mỗi con người không nằm ở chỗ người đó có thể nâng được vật nặng bao nhiêu, chiến thắng được bao nhiêu kẻ thù. Sức mạnh thực sự nằm ở việc người đó có thể nâng đỡ được bao nhiêu người!

phat-mat-trang

Một số điều có thể với ai đó là điều hiển nhiên, nhưng với một số người khác, điều đó lại có thể là điều kỳ diệu với sức mạnh nâng đỡ to lớn.

Giá trị của những lời khuyên đúng đắn nằm ở chỗ nó đến với đúng người, đúng thời điểm. Hi vọng những điều sau đây có thể đến với ai đó đang cần, đúng lúc.

Luận về sức mạnh

Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc.

Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ.

Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí.

Sức mạnh của vua chúa là quyền uy.

Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo.

Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa.

Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát.

Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

Về sự thay đổi

Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh,

nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình,

đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ

Epictatus, nhà khắc kỷ vĩ đại cũng chia những vấn đề của thế giới thành 2 loại là:

  • Loại thứ 1: loại vấn đề chúng ta không thể thay đổi, đó là tất cả những vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, ngoại cảnh.
  • Loại thứ 2: loại vấn đê chúng ta có thể kiểm soát như cảm xúc, ham muốn, thái độ khi đối mặt với ngoại cảnh.

Đây là điều trùng khớp của tất cả các trường phái triết học trên thế giới và hẳn là một chân lý đúng đắn.

Về sở hữu

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay.

Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

Về xét đoán bản thân

“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và

khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

Về sự khác biệt của vạn vật

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

Về im lặng

“Là con Phật, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

Về ác khẩu

Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

Về ý kiến

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

Về sở hữu

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”

Bài viết Thiên tri mệnh và những điều đáng ngẫm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/thien-tri-menh-va-nhung-dieu-dang-ngam-473/feed/ 0
Phức cảm vượt trội – một dạng tự ti bị ẩn giấu https://nghianb.org/phuc-cam-vuot-troi-mot-dang-tu-ti-bi-an-giau-418/ https://nghianb.org/phuc-cam-vuot-troi-mot-dang-tu-ti-bi-an-giau-418/#respond Tue, 11 Apr 2023 15:12:45 +0000 https://nghianb.org/?p=418 Phức cảm vượt trội là giả vờ bản thân là người mạnh mẽ, vĩ đại và hoàn hảo để che giấu đi phức cảm tự ti. Cũng giống như họ giả vờ tỏ ra cao lớn bằng cách đi trên ngón chân của mình, mặc dù bản thân thật sự thấp bé. Chúng ta cóXem thêm

Bài viết Phức cảm vượt trội – một dạng tự ti bị ẩn giấu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>

Phức cảm vượt trội là giả vờ bản thân là người mạnh mẽ, vĩ đại và hoàn hảo để che giấu đi phức cảm tự ti. Cũng giống như họ giả vờ tỏ ra cao lớn bằng cách đi trên ngón chân của mình, mặc dù bản thân thật sự thấp bé.

alfred-adler

Chúng ta có thể đâu đó đã được nghe nói tới những từ như tự ti, ngược lại với nó có thể là từ “ảo tưởng sức mạnh” “tự tin thái quá”… Theo Adler, nếu 1 người thường xuyên ở trong trạng thái cảm thấy mình vượt trội, thậm chí còn cảm thấy những người quanh mình đặc biệt là bố mẹ mình, con cái của mình là vượt trội (nhưng thực tế thì không được như vậy). Tình trạng thường xuyên ở trong trạng thái đó, cộng với các hành động, suy nghĩ thể hiện tình trạng đó có thể được coi như một người đang có phức cảm Vượt trội. Tình trạng này nếu so với phức cảm tự ti, về sâu xa cũng có nhiều điểm tương đồng.

phuc-cam-vuot-troi

Dấu hiệu của người mang phức cảm vượt trội

Phức cảm vượt trội là sự đề cao tới mức phóng đại về giá trị bản thân. Nó che giấu cảm giác thực sự của sự tầm thường.Theo Anfred Adler, cha đẻ của trường phái tâm lý học cá nhân, ông cho rằng phức cảm vượt trội và phức cảm thua kém sẽ đi đôi với nhau. Điều này tôi thấy cũng là đúng đắn như quy luật của tự nhiên có âm – có dương, có cực âm thì có cực dương, nếu coi mỗi cá nhân là 1 chỉnh thể luôn có xu hướng cân bằng trở lại để tồn tại thì điều này chẳng thể sai.

Adler cho rằng một người luôn có cách hành xử hơn người và coi người khác là kém cỏi hơn thực sự đang che giấu cảm giác tự ti ẩn sâu bên trong. Tương tự như vậy, một số người có khát vọng cao có thể cố gắng xoay sở bằng cách giả vờ khiêm tốn hoặc che giấu năng lực bản thân.

Những người mang phức cảm vượt trội có một vài đặc điểm chung: luôn coi mình là thông minh vượt trội, luôn tin rằng mình xuất thân cao quý, con cái của họ luôn giỏi hơn những đứa trẻ khác, tin rằng nếu bản thân mình, người thân của mình, con cái mình… không bằng người khác thì đó là điều không may mắn chứ không phải do năng lực… mặc dù sự thật có thể là hoàn toàn ngược lại. Những người này đa số sử dụng phức cảm vượt trội như một công cụ để vượt qua trạng thái tầm thường của bản thân, hoặc/ và che giấu những thất bại nặng nề trong quá khứ…)

Tâm lý học cá nhân của Adler dựa trên ý tưởng rằng tất cả chúng ta đang cố gắng vượt qua cảm giác không phù hợp hoặc thấp kém, và điều này tạo động lực cho chúng ta thành thạo các kỹ năng và sống một cuộc sống có ý nghĩa.

Vượt qua cảm giác thua kém là động lực để chúng ta sống cuộc sống mà chúng ta muốn. Trong bối cảnh này, phức cảm vượt trội là kết quả hoặc là phản ứng đối với việc không đạt được một mục tiêu nào đó hoặc không đáp ứng được mong đợi của bản thân.

Nói cách khác, người mang phức cảm vượt trội thường không cố gắng dành năng lượng vào đúng chỗ để trở nên mạnh mẽ, thay vì vậy họ có xu hướng đánh bóng, màu mè khiến cho họ trông có vẻ đẹp hơn thực tế.

Điều gì gây ra phức cảm vượt trội

Nguyên nhân thực sự hình thành phức cảm vượt trội vẫn còn chưa được rõ ràng mà chỉ là các giả thuyết. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn đó là, phức cảm vượt trội được hình thành với một múc đích rõ ràng và không có ai sinh ra đã có phức cảm vượt trội và không phải một người chỉ đôi lúc (hiếm khi) có suy nghĩ “mình vượt trội” đã bị coi là mắc phức cảm vượt trội. Người mang phức cảm vượt trội phải là người có xu hướng bị ám ảnh bởi suy nghĩ “mình vượt trội” một cách vô lý, suy nghĩ này không chỉ áp dụng cho chính bản thân người đó mà còn ám ảnh sang cả những người thân, đặc biệt là những người có quan hệ huyết thống trực tiếp với họ (bố mẹ, con cái, ông bà)

Cá nhân tôi tin rằng, trong cuộc sống có nhiều sự kiện bao gồm cả những thành công đột ngột, bất ngờ đi kèm với những thất bại nặng nề, kết hợp với hoàn cảnh đặc biệt về gia đình, các mối quan hệ đổ vỡ… có thể là nguyên nhân gốc rễ.

phuc-cam-vuot-troi-2

Ví dụ như một người đạt được những kết quả học tập thực sự tốt trong suốt thời thơ ấu, bỗng dưng thất bại khi bước chân vào đời, công việc bết bát, tình cảm đổ vỡ, gia đình ly tán… nhiều điều bất lực không đủ bản lĩnh để xoay chuyển cục diện…. Sau đó, để xoa dịu từ bên trong, người ta cố gắng gồng mình lên và gây dựng những hình ảnh vượt trội cho bản thân cùng những thứ xung quanh mình để che giấu đi sự yếu kém (vốn khó thừa nhận) của bản thân.

Aldred Freud nghĩ rằng phức cảm vượt trội thực ra là một cách bù đắp hoặc bù đắp quá mức cho các lĩnh vực mà chúng ta không tốt. Ông nghĩ rằng nó có thể là động lực hoặc là một cách để giúp chúng ta đối phó với thất bại.

Đôi khi Phức cảm vượt trội dễ bị nhầm lẫn với Sự tự tin. Sự khác biệt rõ nhất là đó Phức cảm vượt trội không xuất phát từ việc bản thân người đó vượt trội, trong khi đó Sự tự tin xuất phát từ việc chúng ta thành thục một kỹ năng nào đó trong cuộc sống.

Phức cảm vượt trội có thể bắt đầu từ khi nào

Trong tự nhiên hoang dã, hay bản năng động vật của chúng ta, chúng ta phải thường xuyên đương đầu với những mối nguy hiểm của tự nhiên. Một trong những cách đó là cố gắng xù lông, giương đờm, dựng lông… Tóm lại cố gắng để cho những kẻ thù thấy rằng chúng ta “lợi hại” mặc dù có thể chúng ta cũng vô hại giống như con rết cây khổng lồ châu Phi sau đây vậy, nó chỉ ăn thực vật đã phân hủy và có thể nuôi làm thú cưng….

ret-cay-khong-lo-chau-phi

Những hành vi này có thể bắt đầu từ khi còn nhỏ. Khi một đứa trẻ đang học cách đương đầu với những thách thức và thay đổi, chúng có thể học cách kìm nén cảm giác không thỏa đáng hoặc sợ hãi. Phức cảm vượt trội có thể từ đó phát triển.

Tương tự như vậy, phức cảm vượt trội cũng có thể xảy ra sau này trong cuộc sống. Là thanh thiếu niên và người trưởng thành, một người có nhiều cơ hội để trải nghiệm những điều mới cùng những người bạn mới. Nếu những tình huống này không xảy ra đúng như mong đợi, người đó có thể hình thành phức cảm vượt trội để vượt qua cảm giác bị cô lập hoặc thiếu thốn.

Những hành vi thể hiện phức cảm vượt trội có thể bắt đầu từ khi chúng ta còn rất nhỏ, khi là 1 đứa trẻ phải kìm nén cảm giác không thỏa đáng hoặc sợ hãi. Bắt đầu với biểu hiện là ba hoa, khoác lác, thường xuyên khoe khoang về những hiểu biết và mối quan hệ, kỹ năng … trong khi thực tế hoàn toàn không dành nỗ lực để rèn luyện kỹ năng đó. Hoặc cũng có thể xuất phát từ bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống, sau những biến cố, sự kiện trong cuộc sống xảy ra không theo mong muốn, đa phần là những thất bại không có cách sửa chữa.

Làm sao để nhận ra một người có phức cảm vượt trội

Trên thực tế, không có triệu chứng cụ thể cho người mang phức cảm vượt trội. Việc tiếp xúc một vài lần gần như không thể phát hiện ra một người có phức cảm vượt trội hay không, tương tự vậy với người mang phức cảm tự ti. Rất khó để phát hiện nếu bạn không phải một chuyên gia và không có thời gian tiếp xúc đủ lâu dài. Một số triệu chứng của phức cảm vượt trội tương tự như các tình trạng sức khỏe tâm thần khác như rối loạn nhân cách ái kỷ, tâm thần phân liệt, mất trí nhớ và rối loạn lưỡng cực.

Tuy nhiên, cá nhân tôi thấy rằng, các vấn đề về mặt sức khỏe tâm thần, xã hội như trường hợp mang phức cảm vượt trội nặng nề thường có thể phát hiện được nếu như người quan sát vượt qua được ranh giới giữa ngôn từ và kết quả, nhìn sâu vào những dấu ấn quá khứ để để lại của người khác.

Thông thường, việc xem xét một người, bao gồm cả trẻ em và người lớn có phức cảm vượt trội hay không chúng ta cần xem xét 03 vấn đề chính:

  • Thứ 1: biểu hiện của hiện tại: người đó có hay tự khen bản thân, khen người thân, khen các thứ liên quan tới người đó hay không. Ở đây chúng ta phải phân biệt giữa một người lãng mạn, lạc quan với một người mang phức cảm vượt trội. Và phải thừa nhận rằng, sự phân biệt này sẽ cần phải xem xét tới điều thứ hai.
  • Thứ 2: hãy xem các kết quả người đó đã tạo ra trong quá khứ. Khi xem xét một con người, cách đơn giản là chúng ta xem xét toàn diện IQ và EQ của người đó, các loại hình trí thông minh và kết quả của việc học tập, lao động. Để xem người đó đã tạo ra được dấu ấn gì về mặt khoa học, nghệ thuật, xã hội…. trong quá khứ và so sánh với những thứ người ấy tự nói về bản thân, về những điều xung quanh bản thân.
  • Thứ 3: đào sâu vào những vấp ngã, thất bại, tổn thương… chủ yếu là những thứ người đó phải đối đầu trong quá khứ. Cho dù có thể nó bị các câu chuyện thần thoại người ta tự tô vẽ thêm che lấp thì đâu đó vẫn sẽ có những sự thật phơi bày. Phải thừa nhận rằng điều này cũng không dễ vì thường họ sẽ không nói thật trừ khi bạn trở thành 1 chuyên gia được họ chỉ định hoặc trở thành 1 phần trong cuộc đời của họ.

tre-bi-phuc-cam-tu-ti

Phức cảm vượt trội này có cần điều trị không và làm cách nào để điều trị

Phức cảm vượt trội cho tới nay không có phương pháp điều trị vì nó không được coi là một chẩn đoán bệnh lý chính thức. Tuy nhiên, một người nào đó có kiến thức chuyên môn về sức khỏe tâm thần có thể đưa các giải pháp trị liệu tại nhà. Phương pháp này có thể giúp người mắc phức cảm vượt trội hiểu bất kỳ vấn đề tiềm ẩn nào đối với hành vi khoe khoang. Cuối cùng nó sẽ giúp người gặp vấn đề biết cách xử lý chúng theo cách có lợi hơn.

Điều quan trọng nhất trong trị liệu tại nhà là những cuộc nói chuyện cởi mở giữa người trị liệu và người gặp vấn đề. Trong bất kể trường hợp nào, người gặp phức cảm vượt trội cần phải có niềm tin tuyệt đối vào người trị liệu và sẵn sàng chia sẻ chân thành, cũng như chấp nhận những gì mình đang gặp phải có thể là một vấn đề gây ảnh hưởng không tốt tới cuộc sống cá nhân. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong trị liệu.

Sau đó, người trị liệu giúp người gặp vấn đề cảm thấy họ luôn được che chở, được tha thứ và không hề bị phân biệt đối xử cho dù họ có gặp vấn đề hay không gặp vấn đề, có giỏi hay có không thực sự giỏi.

Khuyến khích người gặp vấn đề phức cảm vượt trội nhìn nhận mọi việc một cách đơn giản hơn. Đối mặt thường xuyên với những vấn đề khó khăn mà trước đây chưa giải quyết được, lựa chọn các phương pháp giải quyết và các khả năng có thể xảy ra. Từ đó, đưa tới các vấn đề mới và cùng nhau giải quyết vấn đề.

Đối với những đứa trẻ gặp phức cảm vượt trội, điều quan trọng là chỉ ra cho chúng những điểm tốt để khuyến khích, bên cạnh đó chỉ ra tác hại của những việc như nói dối, khoe khoang, coi thường người khác… Nếu có thể, hãy cho trẻ tham gia các buổi sinh hoạt tập thể có những người giỏi hơn và các bạn kém hơn về mặt nào đó để chúng thấy việc hơn thua là bình thường và chấp nhận những điều đó như một phần của cuộc sống. Và cho dù như thế nào thì người thân cũng sẽ ở bên cạnh chúng và không coi thường chúng.

Đối với người lớn, câu chuyện sẽ đi xa hơn, vì các trường hợp này thường đã che giấu một thời gian dài. Thời gian trải qua phức cảm vượt trội càng dài thì cơ hội chữa lành cân bằng càng mong manh. Điều này còn tùy thuộc rất nhiều vào gia đình, người thân… đặc biệt nhất định phải có những người có khả năng trị liệu ở bên cạnh. Nếu không thường sẽ không thể phát hiện và không thể đưa ra các biện pháp giải quyết thích đáng. Khuyến khích họ trung thực hơn về cảm xúc của bản thân, nhìn nhận chân thành và thấu đáo hơn về năng lực của bản thân, của những người xung quanh. Tiếp đến là phân tích sâu về các mặt của 1 vấn đề, của 1 thất bại, 1 thành công trong quá khứ… và tìm kiếm các lĩnh vực mới trong việc phát triển bản thân.

Hãy buông bỏ phức cảm vượt trội, ngừng giả vờ tỏ ra mạnh mẽ và thôi mong đợi được đánh giá cao.

Một số câu điển hình của Alfred Adler về phức cảm vượt trội

Đừng cố gắng để “tỏ ra mạnh mẽ”. Hãy cố gắng để “trở nên mạnh mẽ”

Một người tự cô lập mình với mọi người nhưng lại quả quyết tự nhận rằng mình nổi bật và đặc biệt đẳng cấp. Tôi không thể chia sẻ niềm vui này với kẻ đó vì sợ hãi.

Suy cho cùng, người ta nói những điều như “Tôi quen biết người nổi tiếng”, “Đó là một chiếc xe tốt”, hay “Đó là một công việc tuyệt vời” cũng vì không tự tin. Họ đang cố giấu đi tiếng thét của nỗi sợ.

Quần áo lòe loẹt, kiểu tóc khác biệt, nhãn hiệu nổi bật, cười thật lớn, ánh mắt láo liên, hay chen ngang vào câu chuyện… mọi thứ đều do cảm giác tự ti mạnh mẽ gây ra.

“Tôi thật khốn khổ và thảm hại”, “Tôi rất xấu hổ khi phải thú nhận lỗi lầm và thất bại lớn nhất của mình” – đừng để bị lừa. Đó chỉ là cách họ khoa trương về sự khốn khổ và thất bại của bản thân.

Bằng cách hạ thấp người khác, bạn “chiến thắng” mà không cần nỗ lực gì. Vui sướng trên nỗi đau của người khác, phỉ báng, mách lẻo, hay tiết lộ bí mật của người khác… chiến lược hèn hạ này được gọi là “khuynh hướng hạ thấp giá trị”.

Một người quá tốt thì thật đáng ngờ. Một người luôn hòa nhãn, lịch sự, tốt bụng và hào phóng có thể chỉ là một kẻ đạo đức giả.

CÓ những kẻ sở khanh, trai bao khiến phụ nữ khóc. Có những người đàn ông cháy bỏng đam mê tán tỉnh những cô gái xinh đpẹ. Nhưng cũng có nững người phụ nữ thao túng những người đàn ông như vậy. Mọi người sử dụng tình dục và thậm chí hôn nhân như một công cụ để theo đuổi tính vượt trội.

Đối với trẻ nhỏ: Việc được bố mẹ khoe khoang sẽ khiến trẻ nhỏ hiển nhiên cho rằng mình sẽ thu hút được sự quan tâm và tán thưởng mà không cần cố gắng gì cả. Từ đó, cả cha mẹ và con cái đều ngập tràn trong phức cảm vượt trội. Do đó, hãy cẩn thận việc “đắc ý” quá mức trên các mạng xã hội.

 

Bài viết Phức cảm vượt trội – một dạng tự ti bị ẩn giấu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/phuc-cam-vuot-troi-mot-dang-tu-ti-bi-an-giau-418/feed/ 0
CHỮ TÂM TRONG KINH DOANH – GÓC NHÌN TỪ MỘT DOANH NGHIỆP https://nghianb.org/chu-tam-trong-kinh-doanh-goc-nhin-tu-mot-doanh-nghiep-402/ https://nghianb.org/chu-tam-trong-kinh-doanh-goc-nhin-tu-mot-doanh-nghiep-402/#respond Sun, 19 Feb 2023 03:54:17 +0000 https://nghianb.org/?p=402 Là giám đốc một doanh nghiệp chuyên kinh doanh các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp trong gia đình. Là một Phật tử, con ý thức được rằng việc kinh doanh không phải là giành giật, vun vén lợi ích cho cá nhân (tư lợi) mà điều quan trọng là phải tạo raXem thêm

Bài viết CHỮ TÂM TRONG KINH DOANH – GÓC NHÌN TỪ MỘT DOANH NGHIỆP đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Là giám đốc một doanh nghiệp chuyên kinh doanh các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp trong gia đình. Là một Phật tử, con ý thức được rằng việc kinh doanh không phải là giành giật, vun vén lợi ích cho cá nhân (tư lợi) mà điều quan trọng là phải tạo ra lợi ích cho toàn thể cộng đồng (tha lợi). Doanh nghiệp con ngoài việc luôn nỗ lực tuân thủ quy định pháp luật, đóng thuế đầy đủ, thanh toán đầy đủ công nợ đối tác, trả lương đầy đủ cho nhân viên… thì cả cá nhân và doanh nghiệp con vẫn luôn ý thức thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn.

Tuy nhiên, khi kinh doanh trên thị trường hiện nay, khi mà mọi hoạt động kinh doanh đều có sự cạnh tranh khốc liệt giữa nhiều sản phẩm cạnh tranh cả trong và ngoài nước. Trong đó không ít các doanh nghiệp cạnh tranh chủ yếu bằng các chiêu trò như giảm chất lượng, giảm giá thành và tăng chiết khấu, tăng cường khuyến mại, quảng cáo… gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Bản thân doanh nghiệp con không làm các điều đó và gặp vô cùng nhiều trở ngại để có thể tồn tại, chưa nói tới việc tạo ra lợi nhuận để làm giàu. Nhiều lúc, công ty chúng con cũng phải đưa ra các chương trình khuyến mại, các chính sách để lấy lòng người tiêu dùng, đối tác phân phối… nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhiều khi cũng phải chậm nộp thuế vì không đủ tiền mặt do khách hàng nợ không trả.

Nhiều lúc bản thân con cũng cảm thấy chán nản và tự hỏi liệu mình có đang làm đúng đắn hay không, liệu việc kinh doanh có nên “chộp giật” để tích lũy trước sau đó mới kinh doanh bền vững hay không, và liệu trong kinh doanh có thể từ bi không? Làm sao để giữ được tâm trong sáng, lòng từ bi của một Phật tử à vẫn có thể thành công trong công việc kinh doanh, hạnh phúc trong cuộc sống cá nhân.

chu-tam-trong-kinh-doanh

Sau đây là một số suy nghĩ trả lời cho câu hỏi của chính mình.

Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, chăm sóc gia đình cho cộng đồng chúng sinh… là một cơ hội tuyệt vời để xây dựng tài sản to lớn là công đức. Nếu như một người bác sỹ có thể chữa bệnh cho một số bệnh nhân mỗi ngày, một doanh nghiệp dược khi nghiên cứu được sản phẩm thực sự tốt sẽ nắm trong tay cơ hội giúp ích cho hàng triệu người mỗi năm. Khi sản phẩm, dịch vụ thật sự tốt, nó không chỉ mang lại lợi lạc về sức khỏe thể chất, tinh thần cho cộng đồng, nó còn mở ra cơ hội kinh doanh, làm giàu cho nhiều người khác trong hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là công đức và cũng là lợi lạc vô cùng to lớn, có khả năng phát triển rộng khắp, bền vững. Thậm chí, nếu được tổ chức tốt và có định hướng kinh doanh rõ ràng, có giá trị cốt lõi… thì thương hiệu doanh nghiệp có thể trở nên bất tử.

Nếu doanh nghiệp đã có nỗ lực định hướng với tâm chân thành bất hoại như kim cương thì chủ doanh nghiệp và nhân viên chớ nên nghi ngại, chớ nên nản lòng khi sự kinh doanh bất toại trong những khoảng thời gian nhất định trong cuộc kinh doanh trên chốn thương trường hiện tại.

Để trả lời thắc mắc trên đây, cá nhân tôi có những ý kiến sau bàn về Chữ Tâm trong kinh doanh, dựa trên tham khảo về bài viết Chữ Tâm trong kinh doanh trên website thuvienhoasen.

Bàn về chữ Tâm trong kinh doanh

Chữ Tâm trong kinh doanh luận bàn chủ yếu về đạo đức kinh doanh và một phần về phương diện phương tiện để giữ Tâm trong sáng trong kinh doanh. Cũng tương tự như Đức Phật giảng về Tứ Diệu Đế trong đó có:

  • Khổ đế: bản chất cuộc sống là KHỔ
  • Tập đế: tập hợp các nguyên nhân gây ra nỗi khổ từ Tam độc (Tham lam, Sân hận, Si mê)
  • Diệt đế: để chấm dứt sự Khổ cần phải tiêu diệt các nguyên nhân gây ra sự khổ, cắt đứt 3 vòi bạch tuộc Tham, Sân, Si.
  • Đạo đế: chỉ ra 8 con đường giải thoát (bát chánh đạo)

Tôi vẫn nhớ có người chủ doanh nghiệp, cũng là sếp cũ của tôi, một Phật tử từng nói với tôi rằng “Cháu có làm gì cũng có thể thành công, nhưng hãy nhớ tránh xa Danh – Lợi – Tình”. Cũng giống như việc tránh xa tam độc và tiến tới 8 con đường của chánh pháp.

Quay về vấn đề trong kinh doanh, Tâm trong sáng không thể xây dựng trên một mục đích bất thiện. Nếu một doanh nghiệp được khởi tâm xây dựng dựa trên việc thuần túy kiếm tiền làm giàu cho bản thân, thì ngay từ mục đích của nó đã sai. Tôi không nghĩ rằng doanh nghiệp như vậy sẽ không thể trở nên giàu có, tuy nhiên, tôi tin rằng, những doanh nghiệp đó sẽ khó lòng bền vững. Dù sao, lâu đài trên cát không thể vững trãi bằng lâu đài xây dựng từ gạch, đá với móng nền chắc chắn. Như vậy, chữ Tâm trong kinh doanh phải bắt đầu với việc xây dựng một doanh nghiệp với mục đích mang lại lợi lạc cho cộng đồng cho những người khác – Tha lợi chứ không phải thuần túy Tư lợi. Đây là nền tảng của mọi chữ Tâm trong kinh doanh.

Nếu doanh nghiệp xây dựng với mục đích Tha lợi, doanh nghiệp đó sẽ không thể tìm mọi phương pháp phạm pháp để đạt mục đích kinh doanh. Bản chất kinh doanh là tạo dựng giá trị, không phải để kiếm tiền. Tiền xây dựng trên Giá trị chứ không phải Giá trị xây dựng trên Tiền.

Học thuyết duyên khởi của Phật giáo nói về những thứ hiện hữu hiện tại được hình thành và phát sinh bởi vì những nguyên nhân trước đó. Tập hợp đầy đủ các nguyên nhân (nhân duyên) để hình thành nên kết quả của thực tại. Nếu trong số các nhân duyên đã hình thành có sự bất thiện thì kết quả làm sao thiện, bất thiện thì không bền vững giống như bóng tối vậy, chỉ cần có chút ánh sáng mặt trời chiếu tối, bóng tối biến mất không một dấu vết.

Khi doanh nghiệp kinh doanh dựa trên lợi lạc cộng đồng, sản phẩm được chăm chút để mang lại tối đa lợi ích cho người tiêu dùng thì chi phí thường phát triển sản phẩm thường sẽ cao hơn những sản phẩm tập trung vào mục đích tăng cường lợi nhuận bằng các chiêu trò trong kinh doanh. Sự cạnh tranh trong bối cảnh tự do thương mại, cơ chế thị trường dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp đưa ra các sản phẩm tương tự nhau. Điều này cuối cùng có mặt tích cực đối với người dùng so với tình trạng hàng hóa khan hiếm, độc quyền, đó là người dùng có thêm lựa chọn phù hợp với từng tình trạng bệnh tật, tùy tình trạng nhu cầu, tùy vào túi tiền của người tiêu dùng. Nôm na, người tiêu dùng có khả năng bỏ ra một số tiền ít hơn mà vẫn có thể dùng được giá trị cao hơn so với trước đây. Tuy nhiên, chỉ là có thể, nếu lựa chọn đúng những sản phẩm có giá trị!

Những doanh nghiệp kinh doanh với chữ Tâm thì không nên xem các sản phẩm tương tự trên thị trường là đối thủ, là kẻ thù hay mối đe dọa. Các doanh nghiệp với Tâm trong sáng trong kinh doanh cần nhìn nhận sự đa dạng này giống như một cuộc cạnh tranh về chất, thay vì chạy theo lượng. Vì sự nghiệp kinh doanh của các doanh nghiệp với chữ Tâm là sự nghiệp Tận tụy phụng sự cộng đồng nên sự cạnh tranh này nên quy về cuộc chạy đua về Tối ưu hóa: làm ra sản phẩm tốt nhất với chi phí thấp nhất và làm việc chăm chỉ nhất để đưa sản phẩm tốt tới người dùng một cách tiện lợi nhất. Công đức này là thứ cúng dường cho Tam Bảo không gì quý bằng.

Hiểu theo cách này, chữ Tâm trong kinh doanh cần nhìn nhận đúng đắn. Đó là, việc kinh doanh có thể áp dụng mọi phương pháp kinh doanh hợp pháp để hướng tới mang lại lợi lạc tối đa cho cộng đồng. Tuân thủ pháp luật, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình chế biến sản phẩm, chăm sóc khách hàng thường xuyên và hướng dẫn đầy đủ. Và hoàn toàn không có gì sai, nếu việc PR, quảng cáo sản phẩm mà đó là một sản phẩm tốt, nội dung quảng cáo không gây hiểu lầm phóng đại tác dụng của sản phẩm, nhất là các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, bảo vệ gia đình!

Chân thật là đạo đức trong kinh doanh

Đạo đức trong kinh doanh theo Phật giáo bao gồm: không lừa dối, không thổi phồng giá trị trong quảng cáo, chân thành với những cam kết. Phương pháp “câu cá nơi có cá” mà bất chấp luật lệ câu có thể mang lại những lợi nhuận to lướn trước mắt, tuy nhiên, phương pháp này sẽ dẫn đến các hậu quả khó lường. Chân thật là cách tốt nhất để giữ hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng và khách hàng tiềm năng.

Trước khi kinh doanh bất cứ sản phẩm nào, người làm kinh doanh cần phải trả lời được câu hỏi “Liệu mình có thể mang lại sản phẩm vượt trội cho người tiêu dùng. Liệu doanh nghiệp mình có mang lại được giá trị độc nhất cho cộng đồng? Trong cả 1 bức tranh tổng thể của thị trường lành mạnh, doanh nghiệp có thể trở thành 1 miếng ghép phù hợp hay không?” Nếu chúng ta có thể trả lời được tất cả những câu hỏi trên, hãy mạnh dạn dấn thân để kinh doanh theo từng bước khẳng định vị trí của doanh nghiệp.

chu-tam

Đối với những doanh nghiệp kinh doanh bằng các chiêu trò giành giật khách hàng, xây dựng quan hệ để cung ứng các sản phẩm kém chất lượng ra thị trường… thổi phồng công dụng của sản phẩm để gây hiểu lầm cho người tiêu dùng… Sớm hay muộn, những doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với sự thải trừ của cộng đồng người tiêu dùng, khi mà hiểu biết của người tiêu dùng ngày càng tăng lên và thị trường ngày càng trở nên lành mạnh hóa hơn.

Hiện nay, có nhiều cơ chế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thương hiệu, các nhãn hàng tốt bằng việc đăng ký bản quyền, đăng ký tác quyền, kiểu dáng công nghiệp, hoặc đăng ký các phát minh, sáng chế… Bằng cách này, những doanh nghiệp có các sản phẩm tốt, có các phát minh, sáng chế… có thể được bảo vệ khỏi sự xâm phạm, sao chép, giả mão nhãn hàng. Nhờ đó, duy giúp doanh nghiệp làm việc có Tâm trở nên yên tâm hơn trong quá trình kinh doanh. Tâm từ bi của các cá nhân kinh doanh phải đi kèm với một trí tuệ kinh doanh và am hiểu về môi trường kinh doanh. Nếu tâm từ bi không đi kèm với một trí tuệ kinh doanh tốt thì công việc kinh doanh cũng dễ dàng rơi vào tình trạng “chưa kịp lớn đã bị đổ”.

Chữ Tâm trong kinh doanh đi kèm với việc xây dựng giá trị

Trọng tâm của việc phát triển kinh doanh nên được hiểu theo cách tập trung vào việc xây dựng giá trị, tạo dựng giá trị tốt và vun đắp giá trị đó để mang lại lợi ích tối đa cho cộng đồng. Thay vì bị thị trường cuốn theo các chiêu trò tiếp thị, cuốn theo nhịp điệu giảm giá, khuyến mại ảo… công ty cần tập trung nguồn lực tối đa cho việc cải tiến các sản phẩm, cải tiến các dịch vụ chăm sóc khách hàng để sản phẩm mang lại giá trị tối đa cho nhu cầu của người dùng. Các sản phẩm về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cần sự đầu tư nguồn lực cho phát triển sản phẩm lớn hơn hẳn so với các lĩnh vực khác, vì nó liên quan trực tiếp tới sức khỏe con người. Ngoài việc nghiên cứu sản phẩm có hiệu quả cao, người làm kinh doanh còn phải chú ý phương diện an toàn của sản phẩm.

Khi sản phẩm đã hiệu quả và an toàn thì doanh nghiệp phải phát triển để làm chủ công nghệ, nguyên liệu, thay vì phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp, việc chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào có chất lượng cao không chỉ có ý nghĩa giúp việc cải tiến chất lượng sản phẩm được hiệu quả hơn, nó còn có ý nghĩa to lớn giúp tối ưu hóa giá thành sản phẩm và góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia thông gia việc đóng góp vào công nghệ kỹ thuật nội địa. Việc này thể hiện được không chỉ chữ Tâm trong kinh doanh mà còn là Tầm vóc của doanh nghiệp và người chủ doanh nghiệp. Đó là cách nâng cao giá trị của toàn bộ thương hiệu quốc gia chứ không còn đơn thuần xây dựng giá trị sản phẩm thông thường.

Đối với các nhà quản lý có Tâm, cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi, cơ chế kích thích để phát triển nhiều doanh nghiệp có khả năng bồi đắp giá trị thương hiệu quốc gia như trên. Bởi vì, điều này không chỉ có lợi cho 1 doanh nghiệp kể trên, nó có thể giúp nâng giá trị của cả một đất nước, từ đó nâng cao giá trị đóng góp của quốc gia đó trên trường quốc tế.

Vậy, những cây hỏi phải đặt ra trong quá trình phát triển chữ Tâm thông qua việc tạo dựng, bồi đắp giá trị có thể là “Giá trị cốt lõi của doanh nghiệp là gì? Doanh nghiệp có thể tạo dựng giá trị gì cho người tiêu dùng? Sản phẩm của doanh nghiệp có thể giúp ích gì cho người tiêu dùng? Liệu sản phẩm này có thể tối ưu được hơn nữa giúp nâng cao giá trị và giảm giá thành hay không? Các sản phẩm này, công nghệ này có thể góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia hay không?”

Ứng dụng Đạo Phật để giữ chữ Tâm trong kinh doanh

Phật giáo khuyến khích các chủ doanh nghiệp kinh doanh mang lại lợi lạc cho xã hội, đóng góp vào sự phát triển của loài người. Người Phật tử khi kinh doanh cần phải đi bằng hai chân 1 chân bên Đạo, một chân bên Đời. Thấu hiểu các giáo lý của nhà Phật, các phương pháp tu tập của Phật giáo… ứng dụng trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ việc phát triển sản phẩm, bán hàng, marketing… sẽ giúp doanh nghiệp không chỉ có cơ hội phát triển mà còn giúp doanh nghiệp trở nên trường tồn, góp phần vào một thị trường kinh doanh lành mạnh để phụng sự xã hội được lâu dài.

Mỗi khi làm một việc gì đó phục vụ cho kinh doanh, người chủ doanh nghiệp cần hiểu rõ về động cơ của hành động đó để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn. Luôn ghi nhớ về những điều được học trong thuyết Duyên Khởi để đánh giá xem những nhân duyên gì dẫn tới kết quả hiện tại và có thể làm gì để có những kết quả tốt hơn. Tâm từ bi được khởi lên cần phải vững vàng như kim cương bất hoại, dù những khó khăn trắc trở có thể tới trong suốt quá trình kinh doanh. Nếu đã khởi sự từ những nhân duyên tốt lành, điều còn lại phải làm của chủ doanh nghiệp là kiên trì tạo ra những giá trị tốt đẹp, mang lợi lạc cho cộng đồng chứ không phải liên tục bị danh – lợi – tình, các chiêu trò PR, truyền thông kéo đi. Học phương pháp Marketing dựa trên giá trị thay vì dựa trên khuyến mại.

bat-chanh-dao
Bát chánh đạo tương sinh tương tức

Phật giáo dạy chúng ta bát chánh đạo là 8 con đường giải thoát, đây cũng là một trong những nguồn tham khảo giá trị to lớn với bất kể doanh nghiệp nào muốn giữ chữ Tâm trong kinh doanh. 8 con đường giải thoát (bát chánh đạo) đó là:

  • Chánh kiến
  • Chánh tư duy
  • Chánh ngữ
  • Chánh nghiệp
  • Chánh mạng
  • Chánh tinh tấn
  • Chánh niệm
  • Chánh định

Để bàn sâu vào việc áp dụng Bát chánh đạo trong nghiệp kinh doanh nhằm giữ chữ Tâm trong kinh doanh, chúng ta sẽ cùng chia sẻ trong một cơ duyên khác. Và điều này cần có sự chuẩn bị kỹ càng của cả người viết và những người hữu duyên về sự am hiểu nhất định trong Phật giáo cơ bản cũng như những tư duy kinh doanh cơ bản.

Hà Nội, 19/2/2023

Bài viết CHỮ TÂM TRONG KINH DOANH – GÓC NHÌN TỪ MỘT DOANH NGHIỆP đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/chu-tam-trong-kinh-doanh-goc-nhin-tu-mot-doanh-nghiep-402/feed/ 0
Nỗi ám ảnh tiềm thức – Ánh sáng và bóng tối https://nghianb.org/noi-am-anh-tiem-thuc-anh-sang-va-bong-toi-363/ https://nghianb.org/noi-am-anh-tiem-thuc-anh-sang-va-bong-toi-363/#respond Wed, 05 Oct 2022 04:59:48 +0000 https://nghianb.org/?p=363 Tôi bị ám ảnh bởi 2 thứ, tôi không biết tại sao nhưng nó xuất phát từ bên trong sâu thẳm, có lẽ là nằm ranh giới giữa linh hồn với lý trí thể xác. Hai thứ điển hình đó là. 1. Là ám ảnh bởi các hố sâu màu đen, không thấy đáy, chuyểnXem thêm

Bài viết Nỗi ám ảnh tiềm thức – Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Tôi bị ám ảnh bởi 2 thứ, tôi không biết tại sao nhưng nó xuất phát từ bên trong sâu thẳm, có lẽ là nằm ranh giới giữa linh hồn với lý trí thể xác.
anh_sang_nghianb
Hai thứ điển hình đó là.
1. Là ám ảnh bởi các hố sâu màu đen, không thấy đáy, chuyển động theo hình xoắn ốc từ trên xuống dưới, thậm chí 1 từ “trống rỗng” cũng khiến tôi bật khóc khi nhắc, nghĩ về nó, đương nhiên trong thâm tâm tôi hiện lên sẽ là hố sâu, chuyển động hình xoắn ốc.
Như ngày bé xíu tôi hay mơ về 1 chiếc giếng sâu không đáy, tôi chuyển động theo hình xoắn ốc, theo kim đồng hồ, xung quanh toàn bóng tối đen kịt và không thấy đáy, tôi cũng chưa bao giờ mơ đủ lâu tới đáy cứ như chui từ đầu lỗ đen tới vô tận vậy. Sở dĩ tôi nghĩ đó là cái giếng bởi sự chuyển động theo 1 hố dọc và có cảm giác như đang rơi xuống chứ không gian xung quanh chỉ màu đen thì đúng là ngôn từ lúc đó chỉ để chiếu lệ. Giấc mơ đó lặp lại suốt thời thơ ấu của tôi đến nỗi, khi lớn lên tôi link nó với trạng thái “trống rỗng” tôi bật khó dù tôi không sợ hãi bóng tối, không sợ hãi cái chết.
Cũng thời nhỏ, chả hiểu sao, tôi cũng hay mơ về thời chiến tranh, khi đó tôi là 1 người lính mặc áo dằn di, khi quân lính ập vào nơi tôi và đồng đội đang ngồi thì hình ảnh cuối cùng tôi thấy chỉ là 1 chiếc bàn, sau đó chẳng còn gì, kể cả sự đau đớn. Giấc mơ này thưở nhỏ cũng hay lặp lại, khiến khi lớn lên học lịch sử và xem phim tôi cũng nghĩ, có khi ngày xưa mình đi oánh nhau rồi tèo cũng nên.
2. Là ám ảnh ánh sáng. Tôi không thể kìm chế nổi cảm xúc, lồng ngực như căng tràn ra, tim đập chậm lại nhưng lực ép tăng lên mỗi khi nhìn thấy những tia sáng xuyên qua, đặc biệt là các tia sáng chiếu xuyên qua mây, những tia sáng xuyên qua lá, tia sáng xuyên qua đường hầm heo hắt. Như khi chúng ta đi dạo dưới tán rừng âm u, bỗng dưng thấy có màn sương mờ ảo phía trước tôn ánh sáng trắng lên.
Có lẽ, mỗi chúng ta đều được tạo ra bởi ánh sáng và chết đi cũng trở lại hình dạng các ánh sáng như Tesla từng minh họa trong nhật ký của ông ấy và cũng như nhiều nhà yoga mô tả trong hồi ký của họ. Trước đây, có lẽ chúng ta đã là những tia sáng mà màu sắc hay độ sáng phụ thuộc vào độ thuần khiết của mỗi linh hồn cả trước khi tới trái đất này, và cả sau khi rời bỏ thể xác.
Có lẽ cũng vậy mà đôi khi chúng ta bắt gặp những linh hồn dưới dạng các ánh sáng, dù không có hình thù cụ thể nhưng nếu có sự liên kết nào đó đủ mạnh, tự ta vẫn hình dung được hình dạng gần gũi ta từng gặp. Ngày nhỏ cỡ 5-6 tuổi, tôi cũng từng bắt gặp 1 vòng tròn sáng ngay sân, gần cây hồng xiêm lớn do đêm buồn tè mà dậy đi vệ sinh ở phía cổng.
Ánh sáng – Bóng tối – Sự chuyển động liên tục, 3 thứ này cứ mãi ám ảnh trong tâm trí tôi và không bao giờ dứt ra được. Có lẽ nhiều người cũng vậy nhưng không diễn tả được ra!

Bài viết Nỗi ám ảnh tiềm thức – Ánh sáng và bóng tối đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/noi-am-anh-tiem-thuc-anh-sang-va-bong-toi-363/feed/ 0
SỰ TIẾN HÓA CỦA TƯ DUY và TÌNH THƯƠNG https://nghianb.org/su-tien-hoa-cua-tu-duy-va-tinh-thuong-342/ https://nghianb.org/su-tien-hoa-cua-tu-duy-va-tinh-thuong-342/#respond Wed, 10 Aug 2022 03:50:07 +0000 https://nghianb.org/?p=342 Ngày xưa, khi đọc sách xuất bản bởi các nhà xuất bản uy tín, sách dịch bởi các dịch giả uy tín… tôi thấy thu nạp được nhiều kiến thức, tư duy cũng từ đó có thêm nền tảng hiểu biết và phản biện. Sau này, khi việc xuất bản sách dễ dàng hơn, thịXem thêm

Bài viết SỰ TIẾN HÓA CỦA TƯ DUY và TÌNH THƯƠNG đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Ngày xưa, khi đọc sách xuất bản bởi các nhà xuất bản uy tín, sách dịch bởi các dịch giả uy tín… tôi thấy thu nạp được nhiều kiến thức, tư duy cũng từ đó có thêm nền tảng hiểu biết và phản biện.
Sau này, khi việc xuất bản sách dễ dàng hơn, thị trường hơn thì các sách “thương mại” cũng từ đó mà tăng lên theo cấp số nhân. Đánh vào tâm lý muốn đổi đời nhanh, muốn làm giàu nhanh, muốn yêu đương nhanh… Các sách này dần bộc lộ những điểm yếu là tư duy lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu cơ sở khoa học, thiếu kiến thức nền tảng… Tuy nhiên, đây không phải lỗi của các tác giả, mỗi tác giả có 1 trình độ nhất định, họ phản ảnh trình độ tư duy và góc nhìn, quan điểm cá nhân trong mỗi cuốn sách. Do đó, kiến thức họ chia sẻ hoàn toàn có thể “sai”. Những người cầu thị sẽ muốn được độc giả phản biện thay vì được tin tưởng một cách mù quáng tuyệt đối.

PHẢN BIỆN VÀ TƯ DUY TIẾN HÓA NHƯ THẾ NÀO?

Trước đây, khi học về Phật pháp, Triết học Đức, Triết học cổ Ai Cập… sự liên tưởng tới tâm lý học, tới kinh tế, tới vật lý, tự nhiên… khiến tôi hết sức hứng thú. Tuy nhiên, những biến cố trong cuộc đời khiến tôi nhìn nhận mọi thứ theo 1 góc nhìn khác đi. Không thỏa mãn với những giải thích cả trong sách của Phật Giáo về “Duyên” và “Nghiệp”… về những thứ bắt buộc phải xảy đến và những thứ không thể tránh khỏi.

Ví dụ như: “nếu không gặp phải bất hạnh đó sẽ lại dính vào bất hạnh khác mà khéo còn khủng khiếp hơn” hoặc “nếu thằng đó không lừa thì thằng khác lại lừa mình thôi, mà có khi còn khốn nạn hơn”… Những câu nói đó khiến tôi liên tưởng tới câu an ủi của các bố mẹ, anh chị thời xưa “học tài thi phận con ạ, thua keo này bày keo khác” hoặc “sinh viên dược mà không thi lại thì không phải sinh viên dược”…

Không, tôi chẳng bao giờ có thể chấp nhận những câu an ủi kiểu đó nữa rồi. Chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi thế giới quan của mình, và thế giới quan của những người khác, giúp họ tránh khỏi những tai ương của cuộc đời bằng những phép nhiệm màu của lòng vị tha, từ bi và trí tuệ. Nhiều người có thừa sự Từ bi và hỉ xả nhưng trí tuệ bị che lấp khiến cho cuộc sống luôn bất trắc cho tới khi trí tuệ lờ mờ le lói. Trí tuệ ở đây là khả năng hiểu thấu lòng người, hiểu được những quy luật vận hành trong tâm trí mỗi con người, chủng người, văn hóa vùng miền, động cơ của mỗi người, quy luật tự nhiên – xã hội…
Tôi từng nói với nhiều người “tôi chấp nhận sai lầm nhưng sai lầm tới lần 2 theo 1 cách là điều KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN”, cá nhân tôi đã tự đày đọa và dằn vặt bản thân không biết bao nhiêu lần vì những sai lầm theo cách trên.

Từ trong sự đày đọa và dằn vặt đó, tư duy phát triển, sự thận trọng nhưng không mất đi tính thẳng thắn, rộng lượng vốn có. Tư duy phản biện từ đó bật lên nhưng là những câu hỏi từ trải nghiệm để buộc người đưa giải pháp, chính kiến phải bộc lộ bản thân của họ và cùng nhau tìm kiếm câu trả lời đúng đắn, để vẽ một bức tranh tổng thể thay vì chỉ thấy 1 góc bé xíu như “Thầy bói xem voi”

TƯ DUY PHẢI TIẾN HÓA CÙNG TÌNH THƯƠNG

1 người được gọi là Người vì “nhân tri sơ, tính bản thiện”, sự thiện lương trong mỗi con người là điều tất yếu, nếu một con súc vật sau nhiều đời tiến hóa đầu thai thành 1 con người thì cũng chẳng lạ nếu nó đã phát triển được tình thương mến, sự trung thành… mặc dù trí tuệ có thể không cao. Tôi tin là như vậy.

Sự tiến hóa của Tư duy sẽ bộ lộ Trí tuệ hay Trí huệ của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nó vĩnh viễn không có giá trị hoặc không thể tỏa sáng chói lọi nếu thiếu đi Tình thương, lòng trắc ẩn. Tình thương này phải được gạt bỏ khỏi sự ích kỷ, chủ nghĩa vị kỷ khi mọi thứ lo lắng vun vén chỉ nhằm 1 mục đích có lợi cho bản thân. Chủ nghĩa vị kỷ hiện đại rất dễ qua mắt những người thiếu trí tuệ, trải nghiệm vì những người theo chủ nghĩa vị kỷ hiện đại họ vẫn quan tâm tới bạn, vẫn quan tâm tới anh chị em, tới đối tác… nhưng thứ đại đa số không nhìn thấy là Động cơ thực sự bên trong, nếu động cơ bên trong chỉ nhằm mục đích thỏa mãn cho nhu cầu, dục vọng của cá nhân người đó, thì chủ nghĩa vị kỷ đó sớm muộn cũng gây ra đau khổ liên miên cho những người khác, và tình thương đó không phải tình thương, đó là sự lợi dụng một cách có tính toán của một trái tim vô cảm.

Chúng ta hãy nhớ hình ảnh của Quán Thế Âm Bồ Tát, người lắng nghe mọi khẩn cầu, mọi âm thanh rên rỉ đau khổ của thế gian nhưng người không thể đưa bàn tay của mình ra để trực tiếp nâng niu và che chở cho mỗi người, điều mà các vị Bồ Tát có thể làm được đó là cho đi những pháp, giúp con người hiểu được về luật, sống theo luật để đạt được những thành tựu thay vì mù quáng theo chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa tiêu dùng cực đoan… Ở cấp độ con người – con người, bố mẹ – con cái… cũng chỉ nên như vậy mà thôi. Điều gì xảy ra nếu 1 vị bồ tát hi sinh cho 1 con người tồi tàn, thậm chí cho 1 đứa trẻ để vị bồ tát đó biến mất và không còn khả năng độ cho phần còn lại của thế giới loài người???

Nếu vũ trụ này chỉ là một âm Om bao quát cả Trí huệ và Từ bi, cả Âm và Dương, Quá khứ – Hiện tại – Vị lai thì để ngộ được âm Om này người ta cũng mất vô lượng kiếp rồi. Hiểu được đúng và không quy phục tuyệt đối trước những thứ bị quy chụp cho Duyên, Nghiệp… đứng lên bước tiếp, trải nghiệm, hoàn thiện Trí tuệ và Từ bi là cách duy nhất giúp chúng ta lấp đầy khoảng trống mênh mông được tạo ra ngay từ khi chúng ta bị ném vào trong thế giới này với một hành trình vô định, sứ mệnh nào đó mà đa số dành cả đời vẫn không thể hiểu!

Bài viết SỰ TIẾN HÓA CỦA TƯ DUY và TÌNH THƯƠNG đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/su-tien-hoa-cua-tu-duy-va-tinh-thuong-342/feed/ 0
Bồ tát có bệnh không? https://nghianb.org/bo-tat-co-benh-khong-317/ https://nghianb.org/bo-tat-co-benh-khong-317/#respond Thu, 10 Mar 2022 14:19:37 +0000 https://nghianb.org/?p=317 Người Việt chúng ta hễ nghe tới danh xưng Bồ Tát là thấy to lớn, thần thông lắm. Mặc nhiên hiện lên là hình ảnh một người mặc áo trắng, một tay cầm cành dương liễu, một tay cầm bình nước cam lồ. Quả nhiên, vị đó là hình ảnh Bồ Tát Quán Thế ÂmXem thêm

Bài viết Bồ tát có bệnh không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Người Việt chúng ta hễ nghe tới danh xưng Bồ Tát là thấy to lớn, thần thông lắm. Mặc nhiên hiện lên là hình ảnh một người mặc áo trắng, một tay cầm cành dương liễu, một tay cầm bình nước cam lồ. Quả nhiên, vị đó là hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm trong hình tượng dựng bên từ truyền thống Phật giáo Đại thừa. Hình ảnh đó đi vào trong tâm trí nhiều thế hệ người Việt Nam bây giờ qua bộ phim Tây Du Ký của Trung Quốc chứ lại không phải đi vào đầu tiên trong kinh sách hay lời giảng của nhà chùa.

Với hình ảnh được tạo dựng như trong bộ phim nói trên thì đúng là Bồ Tát có nhiều phép thần thông biến hóa, có vẻ như không gì có thể khiến Bồ Tát mắc bệnh hoặc nếu có thì đơn giản lắm, chỉ cần dùng nước Cam lồ là trị được bệnh ngay.

Những bộ phim như trên, vô hình chung đã làm cho nhận thức về những hình ảnh Bồ Tát, Như Lai, bỗng trợ nên bị sai lệch và cần phải điều chỉnh lại cho các thế hệ tiếp theo, nếu chúng ta muốn tôn giáo đặc biệt là Phật giáo trở nên thực sự thuần khiết ở Việt Nam và trên toàn thế giới.

Trong bài này, tôi trích dẫn một phần trong Kinh Duy Ma Cật để nói về Bệnh của Bồ Tát.

Phẩm Văn Thù Sư Lợi

Thăm bệnh

Bấy giờ Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Vị thượng nhân ấy khó bề đối đáp. Ông ấy thâm đạt thật tướng, khéo nói pháp yếu, biện tài không trệ, trí huệ vô ngại, biết hết mọi chỗ làm của chư Bồ tát, vào hết tạng bí mật của chư Phật, chiến thắng các ma, du hý thần thông, trí huệ và phương tiện đều vẹn toàn. Tuy nhiên, con xin vâng theo thánh ý của Phật mà đến thăm bệnh ông.”

Lúc ấy trong chúng, các Bồ tát, đại Đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương… đều nghĩ rằng: “Nay hai đại sĩ Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật đàm luận với nhau, ắt nói diệu pháp.”

Tức thì tám ngàn Bồ tát, năm trăm Thanh Văn và trăm ngàn trời người đều đi theo. Lúc đó Văn Thù Sư Lợi, với sự cung kính vây quanh của các vị Bồ tát, các đại đệ tử cùng các trời người, đi vào thành lớn Tỳ Da Ly.

Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật nghĩ rằng: “Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng sẽ đến đây.” Liền dùng thần lực làm cho nhà mình trống không, không có vật gì cũng không có người hầu, chỉ để lại một cái giường cho ông nằm bệnh.

Thị hiện bệnh là để chỉ tình trạng hiện thời của sanh tử. Làm cho nhà trống không chỉ để Tâm Không hay Pháp giới Không vậy. Trong pháp giới không này, hẳn bệnh chỉ là cái giả mà thôi vậy.

Ngài Văn Thù Sư Lợi vào nhà, thấy phòng trống không, không có gì cả, chỉ độc một giường nằm. Bây giờ, Duy Ma Cật nói: “Quý hóa thay, ngài Văn Thù Sư Lợi! Tướng không đến mà đến, tướng không hiện mà hiện, tướng không thấy mà thấy.”

Tướng không đến, tướng không hiện, và tướng không thấy là thật tướng Pháp thân của ngài Văn Thù Sư Lợi và cũng của ngài Duy Ma Cật. Chẳng lìa thật tướng ấy mà đến, mà hiện, mà thấy, mà đi đứng nói năng thì ở nơi sanh tử bệnh khổ có đến có đi, có được có mất, có nói có nín… này, liền hết bệnh, vì những thứ ấy chỉ là thị hiện như huyễn từ nguồn thật tướng. Hãy nhìn tất cả mọi sự “không đến mà đến, không hiện mà hiện, không thấy mà thấy” bèn thấy ra thật tướng Pháp thân.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Như vậy, cư sĩ. Nếu có đến, rốt ráo là chẳng đến. Nếu có đi, rốt ráo là chẳng đi. Tại sao thế? Đến, không từ đâu đến; đi, không đến nơi đâu, cái có thể thấy(cái hiện ra), rốt ráo là chẳng thể thấy.

Trong thật tướng, trong thực tại hiện giờ, dù có đến, có đi, quan sát kỹ lại, chẳng thể nào có tướng đến tướng đi. Rốt ráo là chẳng đến, rốt ráo là chẳng đi, đó chính là đạo tràng chẳng động, bèn ngay đó mà hết bệnh, ngay đó mà giải thoát. Cái có thể thấy hay cái hiện ra, rốt ráo là chẳng thể thấy vì không có tướng, đó là thấy tánh: “thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”(Kinh Kim Ciiơng).

Ở đây, chúng ta thấy con đường Bồ tát là sự kết hợp nhuần nhuyễn hai chân lý: chân lý quy ước hay thế đế, hay Sự (có đến, có đi, có xuất hiện, có thấy) và chân lý tuyệt đối, hay chân đế, hay Lý (không đến, không đi, không xuất hiện, không thể thấy). Có làm gì trong thế giới quy ước mà không lìa rời khỏi chân lý tối hậu, thế giới quy ước chưa từng tách lìa khỏi “thế giới” tuyệt đối, đó là thị hiện bệnh sanh tử mà thật chưa từng có bệnh vậy.

“Nhưng hãy gác việc ấy lại. Bệnh cửa cư sĩ có thể chịu được chăng? Điều trị có bớt mà không thêm chăng? Thế Tôn ân cần hỏi thăm rất nhiều — ngài có ít phiền hà, ít không thoải mái, ít đau ốm, sự khôn khó của ngài có nhẹ, ngài có được chăm sóc, được thong dong, không tự trách móc, và ngài có đang sống tiếp xúc với hạnh phúc tối thượng không? Thưa cư sĩ, bệnh của ngài do đâu mà khởi? Sanh đã bao lâu, làm sao mà diệt?”

Duy Ma Cật nói: “Từ vô minh và khát ái, bệnh tôi bèn sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh được hết bệnh, thì bệnh tôi diệt. Tại sao như thế? Bồ tát vì chúng sanh mà vào sanh tử, có sanh tử thời có bệnh. Nếu chúng sanh lìa thoát khỏi bệnh, ắt Bồ tát không còn bệnh nữa. Ví như vị trưởng giả chỉ có một đứa con, đứa con ấy bệnh, cha mẹ cũng bệnh. Nếu con lành bệnh, cha mẹ cũng lành. Bồ tát cũng vậy, thương yêu tất cả chúng sanh như thể mỗi chúng sanh là đứa con độc nhất của mình. Chúng sanh bệnh thì Bồ tát bệnh. Chúng sanh lành bệnh, Bồ tát cũng lành bệnh. Ngài lại hỏi bệnh ây nhân đâu mà khởi? Bệnh của Bồ tát là do đại bi mà khởi.”

Có thể định nghĩa Bồ tát là người đã thấu đạt phần nào thật tướng không sanh không diệt, nên dầu có bệnh sanh khởi nơi Bồ tát, thì vị ấy vẫn “được chăm sóc, thong dong, không tự trách móc”, bởi vì, “vẫn đang sống tiếp xúc với hạnh phúc tối thượng”.

Nhưng bệnh nói chung do đâu mà khởi? Từ vô minh và khát ái, nghĩa là từ mười hai nhân duyên sanh tạo ra vòng sanh tử mà khởi. Tất cả chúng sanh đều đang bị cuốn vào vòng xích khắc nghiệt ấy – mà hai mắt xích quan trọng là vô minh và khát ái. Vô minh là nguyên nhân tiềm ẩn, cái khởi đầu cho nên rất vi tế của vòng mười hai nhân duyên sanh tử khổ đau. Khát ái là cái đã hiện hình nên dễ thấy. Tất cả chúng sanh đang bệnh, đang tự cột trói mình càng lúc càng chặt bằng mười hai mắt xích nhân duyên sanh. Không những chỉ một sợi xích mười hai nhân duyên sanh của một đời, mà vô số sợi xích mười hai nhân duyên sanh của vô số đời đã tạo thành một tấm lưới khổng lồ, bền chắc trùm siết tất cả chúng sanh trong ba cõi sanh tử. Chính vì cái nhìn trí huệ này thấy tất cả chúng sanh đang bệnh, đang duy trì bệnh, đang bồi bổ cho bệnh, đang làm mồi cho vô số bệnh mà lòng đại bi của Bồ tát phát khởi: “Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh.” Và vì để cứu chúng sanh thoát khỏi bệnh, Bồ tát phải vào sanh tử, mà có sanh tử thì có bệnh.

Ở đây, để rõ ràng hơn, chúng ta theo kinh điển chia năm mươi địa vị Bồ tát thành ba cấp độ tương đương với điều kinh điển gọi là “ba a tăng tỳ kiếp”. Ở cấp độ thứ nhất (Thập tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng), có thể gọi là Sơ phát tâm, mình cũng hoàn toàn đang bệnh, thậm chí chưa có phương thuốc gì để thực sự chữa lành, nhưng do Phật, Tổ chỉ dạy mà bắt đầu thấy ra mình và tất cả mọi người đều bệnh, do đó mà Bi và Trí bắt đầu phát lộ, và tuy chúng có được thoáng thấy, nhưng chúng chưa có nền tảng thật sự. Ở cấp độ thứ hai, Bồ tát từ Sơ địa đến Thất địa, đã thấy được Pháp thân từ sơ địa thứ nhất, do đó có nền tảng (địa) thực sự để lành bệnh, để Trí và Bi hiển lộ. Tuy ở cấp độ này có thể thực sự lành bệnh và chữa được bệnh cho người khác (tự giác giác tha), nhưng cấp độ này được gọi là con đường còn ô nhiễm, nghĩa là còn có dấu vết sanh tử, còn có dấu vết của bệnh. Phải đến địa thứ tám mới hết nhiễm ô, hết sanh tử, hết bệnh và giải thoát. Cho nên khi nói “Bồ tát vào sanh tử” theo cách nói của ngài Duy Ma Cật, thì Bồ tát ở đây phải đã ra khỏi sanh tử, hết hẳn bệnh, tức là từ địa thứ tám trở lên đến địa vị Phật.

“Nếu tất cả chúng sanh hết bệnh, bệnh tôi sẽ hết”, chúng ta thấy đây đích thực là một lời nguyện, một lời nguyện như sấm nổ vang cả ba cõi. Thế mà lời nguyện ấy được diễn tả thành một câu nói có vẻ bình thường tự nhiên. Cái bình thường ở đây là cái bình thường của những Bồ tát ở bậc cao, không còn cố gắng phát tâm, phát nguyện, ở nơi các ngài Trí Huệ và Đại Bi đã trở thành mạng sống (Huệ mạng và có thể nói là Bi mạng), cái mạng sống tinh khiết đã loại bỏ rồi những nhiễm ô ta – người, xấu – tốt, được – mất, có – không… Trí Bi và cả Dũng đều tự nhiên, bình thường, đó là một dấu hiệu rất cao cả ở một con người.

Ở đây chúng ta thấy, “thương yêu tất cả chúng sanh như thể mỗi chúng sanh là đứa con độc nhất của mình” là lòng từ. Và không chịu nổi khi thấy tất cả chúng sanh đang bệnh là lòng bi. Và lòng bi này càng sâu rộng khi đi đôi với trí huệ, bởi vì trí huệ cho chúng ta thấy bệnh ấy nặng như thế nào, chúng sanh không biết tự chữa như thế nào, nguyên nhân và kết quả của bệnh như thế nào, sự cấp bách mỗi phút mỗi giây bệnh nặng thêm như thế nào…

Chỉ một câu nói, “Vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi bệnh”, nếu chúng ta tham thiền thật sự về nó, chúng ta sẽ tiếp xúc được với lòng bi ở đáy lòng mình. Đó là một lòng bi thấm thấu tất cả thế gian, tất cả sanh tử, vô tận như những chiều sâu khổ đau của sanh tử. Đó là một lòng bi bao trùm và xuyên thấu, nó trở thành một cái gì tuy vô hình nhưng không thể hủy hoại, và tâm thức nào chứa đựng một cái gì bao la không thể hủy hoại, tâm thức đó cũng trở thành bao la không thể hủy hoại. Như thế bằng một lòng bi ban đầu là do phát khởi, nó sẽ đạt đến nền tảng bất tử của chính nó.

Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Nhà của cư sĩ vì sao trống không, không có cả người hầu?”

Duy Ma Cật nói: “Tất cả quốc độ của chư Phật cũng đều Không.”

Lại hỏi: “Vì gì mà Không?”

Đáp rằng: “Vì Không mà Không.”

Lại hỏi: ‘’Không sao lại dùng Không?”

Đáp rằng: “Vì không có phân biệt Không nên Không.”

Lại hỏi: “Không mà có thể phân biệt được ư?”

Đáp rằng: “Phân biệt cũng Không.”

Một đoạn đối đáp về thực tại tánh Không như thế này làm hiển lộ thực tại và đưa người mà tâm thức đã chín do tu hành có thể thể nhập được thực tại. Những sự đối đáp kiểu này về sau được dùng rất nhiều trong Thiền tông để đưa đến ngộ đối với người chưa ngộ và đưa đến thâm nhập thêm vào pháp tánh với người đã từng có kinh nghiệm ngộ.

Ngài Duy Ma Cật đã làm cho ngôi nhà của ngài trống không để hiển lộ cho chúng ta thấy tánh Không, hay cái Không. Thật ra mọi thứ chúng ta đang kinh nghiệm, cây cối, nhà cửa, người qua kẻ lại… tất cả đều trống không như ngôi nhà của ngài. Đó là kinh nghiệm về thực tại tối hậu của đạo Phật. Nhưng thực tại tánh Không này không có nghĩa là không có gì cả. Nói cho dễ hiểu, thì mọi thứ chúng ta thấy đều là những hình bóng trong gương (Tâm Không, tánh Không, Đại Viên Cảnh Trí), và với người chưa biết được gương, thì họ nói tất cả thực tại chính là những hình bóng này, nhưng với người biết được gương, họ sẽ nói rằng mọi thứ có là gì đi nữa, cũng chỉ là gương. Và chỉ có gương là tồn tại, là thật. Chỉ có cái Không là thật, và dù cuộc đời này có diễn xuất như thế nào, cũng chỉ sanh diệt trong cái Không này, và do đó tất cả đều là Không, tất cả đều trống không như nhà của ngài Duy Ma Cật.

Nhưng sự trống không đó do gì mà trống không, cái Không đó do gì mà Không? Với người đã đạt đến bản tánh của tâm thức mình, bản tánh đó là tánh Không, thì câu trả lời rất hiển nhiên và rất đơn giản: Vì Không cho nên Không. Vì nền tảng là Không, vì tất cả các pháp dù có xuất hiện nhưng vô tự tánh cho nên tất cả là Không. Hay nói theo thí dụ trên, vì mọi hình bóng đều xảy ra trong gương Không nên tất cả phải là Gương Không.

Lại hỏi: Đã vốn là Không, thì việc gì phải làm cho trống không? Cần gì phải có ý niệm Không, hay quán tưởng ra cái không có tướng hay ra cái có tướng nữa để làm gì? Đáp rằng: Vì không có phân biệt Không, nên Không. Khi tâm ta không có phân biệt nào trong thực tại, tâm bèn trở lại bản vị của nó, tức tánh Không, nên đó chính là tánh Không. Và trong cái Không này, mọi phân biệt đều bất khả đắc, dù có phân biệt cũng bất khả đắc, cho nên nói rằng, trong cái Không, không thể có phân biệt nào.

Lại hỏi: Không mà có thể phân biệt được ư? Người mà ở trong tánh Không thì thấy câu này quả là hiển nhiên không thể chối cãi. Đã là Không thì còn chỗ nào đâu nữa cho phân biệt? Đáp rằng: Dù có muốn phân biệt gì gì đi nữa, thì cũng chẳng làm gì được với cái Không kim cương bất hoại này. Dù tư tưởng có tạo tác kiểu gì cũng vẫn là Không, không thể ra ngoài cái Không này được. Dù có tạo ra bao nhiêu hình bóng trong gương, cũng chẳng có bóng nào chẳng phải là gương, chẳng có bóng nào thoát ra khỏi gương. Và như vậy, Không chẳng thể sanh ra, chẳng thể kiến tạo ra Không, vì mọi sanh ra, mọi kiến tạo đều bất khả đắc vậy.

Ở trên chỉ là một cách tiếp cận với tánh Không qua những lời đối đáp của hai vị Đại Bồ tát và lối giải thích tiếp cận ấy cũng chỉ là nhất thời, trong lúc này của chỉ một người, vào lúc khác sẽ diễn giảng khác. Nói thế để biết mỗi người phải nỗ lực tư duy và thiền định trong khuôn khổ khuynh hướng tâm thức của mình để mở ra một cái thấy về tánh Không bằng chính kinh nghiệm của mình. Bởi vì tánh Không là vô biên, vô lượng, nên nghĩa những câu kinh trên cũng vô biên, vô lượng.

Lại hỏi: “Không, nên tìm ở đâu?”

Đáp rằng: “Nên ở trong sáu mươi hai kiến chấp mà tìm.”

Lại hỏi: “Sáu mươi hai kiến chấp nên tìm ở đâu?”

Đáp rằng: “Nên ở trong sự giải thoát của chư Phật mà tìm.”

Lại hỏi: “Giải thoát của chư Phật nên tìm ở đâu?”

Đáp rằng: “Nên ở trong tâm hạnh của tất cả chúng sanh mà tìm.”

Đoạn trên nói về cái Không trong tương quan với chính nó, nghĩa là trong chân lý tuyệt đối; đoạn này nói về cái Không trong tương quan với chân lý quy ước.

Sáu mươi hai kiến chấp là sáu mươi hai tà kiến của thế gian bình thường: chấp năm ấm và những thứ đoạn thường, có không… Tìm Không trong sáu mươi hai kiến chấp nghĩa là tìm trong kiến chấp nào của thế gian cũng thấy nó không căn cứ, không nền tảng, không thể lập, nên kiến chấp nào cũng là Không. Bất kỳ một ý kiến nào, một tư tưởng nào, một tình cảm nào khởi lên, nếu tìm rốt ráo, nó phải là Không. Sáu mươi hai kiến chấp là lông rùa, sừng thỏ ở trong cái Không này. Sáu mươi hai kiến chấp chính là tánh Không.

Những món kiến chấp, ý kiến, tư tưởng, tình cảm đó tìm ở đâu? Bằng sự quán chiếu sâu xa, chúng ta thấy rằng chúng vô sở hữu, như hoa đốm vọng thấy giữa hư không, như mười thí dụ như huyễn trong kinh Đại Bát Nhã. Thấy sáu mươi hai kiến chấp “trong sự giải thoát của chư Phật”, tức là trong tánh Không, bèn ngay đó giải thoát.

Và rồi giải thoát của chư Phật lại tìm thấy ở đâu? Ở trong tâm hành của tất cả chúng sanh. Nghĩa là tất cả những tư tưởng, những xúc cảm… đã sanh khởi, đang sanh khởi hay sẽ sanh khởi, tất cả những tâm hành ấy chính là sự giải thoát của chư Phật, nghĩa là chính là tánh Không. Những tâm hành ấy không chỉ sanh ra trong Không, trụ trong Không và diệt trong Không, mà chúng chính là Không, sóng chính là nước, bóng chính là gương, cho nên sanh mà vĩnh viễn chẳng sanh: “Nếu có đến rốt ráo là chẳng đến; nếu có đi, rốt ráo là chẳng đi; cái xuất hiện rốt ráo là chẳng thấy”. Đó là giải thoát của chư Phật.

“Ngài lại hỏi, vì sao tôi không có người hầu? Tất cả chúng ma và các ngoại đạo là người hầu của tôi. Vì sao thế? Chúng ma ưa sanh tử, mà Bồ tát thì không bỏ sanh tử; ngoại đạo ưa các kiến chấp, mà Bồ tát thì nơi các kiến chấp mà chẳng động.”

Chúng ma và ngoại đạo ở đây không phải là một loại đặc biệt nào, mà là tất cả chúng sanh nào ưa thích sanh tử và chưa được chánh kiến nên vẫn sanh khởi đủ loại kiến chấp. Nói tóm, tất cả chúng sanh là người hầu của Bồ tát, là bạn của Bồ tát, bởi vì Bồ tát có lòng bi nên không bỏ sanh tử, và có trí huệ nên có thể ở chung lộn với các kiến chấp, vì “ở nơi các kiến chấp mà chẳng động”.

Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Bệnh của cư sĩ có tướng trạng thế nào?”

Duy Ma Cật nói: “Bệnh tôi không có hình trạng, không thể thấy được.”

Lại hỏi: “Bệnh ấy hiệp với thân ư? Hiệp với tâm ư?”

Đáp rằng: “Chẳng phải hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa. Cũng chẳng phải hiệp với tâm, vì tâm như huyễn.”

Lại hỏi: “Trong bốn đại, địa, thủy, hỏa, phong, bệnh nơi đại nào?”

Đáp rằng: “Bệnh này chẳng phải địa đại, cũng chẳng lìa địa đại. Thủy, hỏa, phong đại cũng lại như vậy. Nhưng bệnh của chúng sanh nương nơi bốn đại mà khởi. Vì chúng sanh có bệnh cho nên tôi bệnh.”

Bệnh của Bồ tát là lòng bi đối với bệnh sanh tử của chúng sanh. Nhưng bệnh sanh tử này của chúng sanh không tìm thấy đâu cả trong bốn đại, trong thân lẫn trong tâm, tìm kiếm tận cùng, rốt ráo là bất khả đắc. Quan sát kỳ cùng căn bệnh sanh tử này cho đến chỗ: “không có hình trạng, không thể thấy được” bèn chứng nghiệm bệnh rốt ráo không có, liền hết bệnh sanh tử.

Chính vì bệnh của chúng sanh không có tướng trạng gì, không thể thấy được mà lòng bi của Bồ tát cũng không có tướng trạng gì, không thể thấy được. Lòng bi không bị giới hạn theo hình tướng, nên là vô tướng, vô biên; không còn sanh khởi theo duyên, nên là vô duyên vô ngại. Đó là đại bi, ứng theo vật mà hiện hình, không phân biệt, không bỏ sót, không bị ngăn trệ nên sức mạnh là vô tận, không có hình tướng nên không bị hư hoại, cần biết rằng càng bớt chấp vào tướng thì đại bi càng “lớn lên”, càng bớt trụ vào hình bóng thì mặt gương càng rộng, càng sáng.

Nhưng với chúng sanh như chúng ta, hay người mới phát tâm đi con đường Bồ tát như chúng ta, cái khó khăn đầu tiên và quan trọng nhất là biết mình bị bệnh: thấy có tướng ở đâu thì chỗ đó có bệnh, khởi tâm phân biệt lên tức thời là sanh bệnh, khởi tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng lên là sanh bệnh, khởi tâm hơn thua lên là sanh bệnh… Khi đã rõ bệnh sanh ra như thế nào rồi, thì biết tình trạng khỏe mạnh trước khi bệnh sanh ra là thế nào, từ đó mà dần dần phục hồi lại trạng thái không bệnh.

Khi thấy rõ bệnh “chẳng hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa. Cũng chẳng hiệp với tâm, vì tâm như huyễn”. Khi thấy bệnh không có ở đâu cả, thì hết bệnh sanh tử.

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật rằng: “Bồ tát nên an ủi Bồ tát có bệnh như thế nào?”

Duy Ma Cật nói: “Nói thân là vô thường, chẳng nói chán bỏ thân. Nói thân có khổ, chẳng nói thích nơi niết bàn. Nói thân vô ngã, mà nói hãy hướng dẫn chúng sanh. Nói thân không tịch, chẳng nói tìm rốt ráo tịch diệt. Nói sám hối tội trước, chẳng nói đi vào quá khứ. Hãy lấy bệnh mình mà thương bệnh người. Hãy nhớ vô số kiếp trước khổ đau mà tưởng đến sự làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Hãy nhớ tu phước đức thiện căn, tưởng đến đời sống trong sạch, chớ sanh lo buồn, thường sanh tinh tấn. Hãy làm vị y vương, chữa trị tất cả các bệnh. Bồ tát nên an ủi Bồ tát có bệnh như vậy, khiến cho hoan hỷ.”

‘Bồ tát có bệnh’ ở đây là Bồ tát mới tu, cần sự an ủi để đi cho đúng đường, chưa thực sự tự mình chữa lành bệnh cho mình được. Khi bệnh thì dễ chán thân, dễ hướng sự tu hành đến chỗ giải quyết cho được cái thân này mà quên đi những người khác cũng đang bệnh, và dĩ nhiên là bệnh nặng hơn mình nhiều. Cho nên thấy mình bệnh, thấy mình đã từng khổ đau từ vô số kiếp thì hãy mở tâm ra mà nghĩ đến vô số người đang bệnh, đang khổ đau từ vô số kiếp. Chỉ sự mở tâm ra này đã làm lành bệnh rồi, bởi vì tất cả mọi bệnh tật đều lấy một cái ta làm nơi tập trung, tất cả mọi nghiệp quả đều từ nơi cái ta mà trổ. Phải chữa lành bệnh – kết quả của nghiệp xấu – bằng làm phước đức thiện căn, bằng cách sống đời trong sạch đầy nghiệp thiện, bằng sự thường tinh tấn. Hãy làm vị y vương chữa bệnh cho mình và cho người bằng Phật pháp.

Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Cư sĩ, Bồ tát có bệnh làm sao điều phục tâm mình?”

Duy Ma Cật trả lời: “Bồ tát có bệnh nên nghĩ như vầy: Nay bệnh của ta đều do các phiền não điên đảo tư tưởng hư vọng đời trước mà sanh, không phải thật có, thì ai chịu bệnh. Tại sao như vậy? Bốn đại hòa hợp nên giả gọi là thân. Bốn đại không có chủ, thân cũng không có ngã.

‘‘Lại nữa, bệnh này sanh khởi đều do chấp ngã. Thế nên chớ sanh đắm trước cái ngã. Đã biết gốc bệnh, liền trừ tưởng ngã và tưởng chúng sanh. Hãy khởi tưởng Pháp. Nên nghĩ như vầy: Chỉ do các pháp hợp thành thân này, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Nhưng lại nữa, các pháp ấy đều chẳng biết nhau, khi khởi không nói ta khởi, khi diệt không nói ta diệt. Bồ tát có bệnh ấy, để diệt tưởng pháp, phải nghĩ như vầy: Các tưởng pháp này cũng là điên đảo. Điên đảo tức là đại họa, ta phải lìa bỏ nó.

Quán sát, hay quán chiếu, là nhìn thẳng vào thực tại như nó vốn là. Sự quán chiếu thực tại giải tan những chướng ngại – tưởng ngã, tưởng chúng sanh, và tưởng pháp… – thông suốt qua những chướng ngại, khi ấy sự quán chiếu trở thành chính thực tại. Quán chiếu chính là thực tại, trong đó không có người thấy, cái được thấy, không còn hình tướng và tư tưởng nào ngăn che. Đây là sự lành bệnh.

Sự quán thẳng vào thực tại làm tiêu những tưởng điên đảo khiến ta làm một với thực tại: cái thấy và cái được thấy là một. Nhưng không dễ gì quán chiếu thẳng vào thực tại trong mọi lúc mọi thời, mà khi không quán chiếu trực tiếp thực tại thì tướng và tưởng sẽ khởi lên do vẫn còn ngủ yên trong căn bản thức. Bởi thế phải quán chiếu chính cái bệnh, cái ngăn che: tưởng ngã, tưởng chúng sanh và tưởng pháp. Cứ một phần cái ngăn che tan biến thì một phần thực tại hiển lộ. Hai sự quán chiếu này là điều hành giả phải làm, không phải vài tuần, vài tháng, mà trọn đời, bởi vì thực tại thì vô hạn và sự ngăn che cũng vô hạn, pháp giới thì toàn khắp và sự ngăn che cũng toàn khắp (vì sự ngăn che ở ngay nơi con mắt tâm của mình). Thậm chí nhiều đời mới mong hết bệnh, có điều phải nên nhớ rằng hễ càng hết bệnh thì càng lợi lạc cho mình và càng lợi lạc cho người và sự bớt bệnh này là hạnh phúc không thể nói bằng lời. Đây là phần thưởng của sự tinh tấn trong việc điều phục tâm mình cho hết bệnh.

“Thế nào là lìa bỏ? Lìa bỏ ta và cái của ta. Thế nào là lìa bỏ ta và cái của ta? Là lìa bỏ hai pháp chủ thể và đối tượng. Thế nào là lìa bỏ hai pháp chủ thể và đối tượng? Là chẳng nghĩ tưởng các pháp bên trong và bên ngoài, nhất tâm thực hành bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Là ngã bình đẳng, Niết bàn bình đẳng. Tại sao như vậy? Ngã và Niết bàn, cả hai đều Không. Vì sao mà Không? Vì chỉ là danh tự nên Không. Hai pháp nhị biên này không thể kiến lập, không có tự tánh quyết định. Thấy được tánh bình đẳng như vậy, thì không phân biệt giữa bệnh và Không, nên không còn bệnh gì nữa. Có còn là chỉ có cái bệnh về Không. Nhưng cái bệnh về Không cũng Không.

“Bồ tát có bệnh này lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ. Chưa đầy đủ Phật pháp thì cũng không diệt cái thọ mà thủ chứng vậy.

Pháp giới vốn không đây kia, trong ngoài, ta và cái của ta, nhưng vì căn bệnh vô minh phân biệt của chúng ta mà thành ra đủ thứ tướng bên trong ta và tướng bên ngoài ta. Mỗi tướng bên ngoài đều có sự liên kết với cái bên trong – như một cái cây là cái cây trong tương quan với tâm thức bên trong của ta – và mỗi tướng bên trong, vui buồn, xúc cảm, tham, sân… đều liên kết với tướng ở bên ngoài. Cả hai liên kết với nhau chằng chịt, kiên cố tạo thành sanh tử cho riêng mỗi người. Cho nên vấn đề chữa bệnh đều quy về hai cái: chấp ngã và chấp pháp, chấp chủ thể và chấp đối tượng. Giải thoát chỉ là việc quán chiếu cho tiêu hai cái vọng tưởng căn bản này thôi vậy.

Sự quán sát liên tục, thấu đáo về chủ thể sẽ đưa đến cái hiểu biết thực sự rằng bên trong không có một nền tảng nào cả. Và bên ngoài không có một tướng nào, một pháp nào có nền tảng để có thể nắm lấy, có thể đắc. Với sự quán chiếu liên tục này, có một lúc nào chúng ta thực sự lọt vào pháp tánh hay tánh Không, đó là bước vào địa thứ nhất. Từ đây tánh Không là niềm tin, sự xác quyết của chúng ta, do đó căn bệnh chấp tướng thâm căn cố đế bắt đầu có thể thực sự được lìa bỏ. Càng lìa bỏ chúng ta càng hưởng được cái tự do bao la của pháp giới, niềm phúc lạc không ngăn ngại (do hình tướng phân biệt mà có ngăn ngại), cái rỗng rang không bờ mé của Pháp Giới Nhất Tâm…

Ở đây kinh dạy chúng ta một phương pháp – trong rất nhiều phương pháp của đạo Phật – để giải quyết một vấn đề căn bản: lìa bỏ hai pháp chủ thể và đối tượng. “Chẳng nghĩ tưởng các pháp (các tướng) bên trong và bên ngoài”: sự nghĩ tưởng là nhiên liệu làm bừng cháy thêm sự chấp pháp, không nghĩ tưởng đến chúng thì chúng trở thành tịch diệt, an nghỉ trong tánh Không. Và “nhất tâm thực hành bình đẳng”: không xao lãng, không để tâm thức làm méo mó thật tướng mà chuyên chú tham thiền về chính sự bình đẳng, sự không phân biệt của pháp tánh, tức là thật tướng của tất cả các pháp, tức là tánh Không. Hai thực hành này, một chú ý đến hiện tượng, một chú ý vào bản thể, sẽ đưa chúng ta thật sự bước vào tánh Không.

“Thế nào là bình đẳng? Là ngã bình đẳng, Niết bàn bình đẳng”. Lời khai thị của ngài Duy Ma Cật trực tiếp chỉ thẳng làm sao! Nhưng những lời khai thị như thế này – và có rất nhiều lời như vậy trong Kinh – không khiến chúng ta vào được thực tại không ngã không pháp thì đó là vì những ngăn chướng của chúng ta còn nhiều trong tâm mà sự thực hành của chúng ta chưa phá vỡ được, chứ không phải những câu nói ấy không phát xuất từ lòng bi vô lượng của ngài.

Tất cả các pháp, dù trong dù ngoài, dù ngã hay là Niết bàn vô ngã, đều chỉ là danh tự, nên không thể kiến lập: tất cả thuần là tánh Không. Đến chỗ này rồi, nếu một mực đi vào cái Không bản thể mà bỏ quên cái Không hiện tượng, nghĩa là bỏ thế giới hiện tượng của chúng sanh, thì cái Không thuộc về bản thể này là bệnh của Bồ tát bậc cao. Đây là điều kinh Đại Bát Nhã nói: học Không bất chứng. Nghĩa là Bồ tát học Không, tu hành Không nhưng không thủ chứng Không về mặt bản thể. Thủ chứng Không về mặt bản thể là “diệt cái thọ để thủ chứng” (tức là thủ chứng Không về mặt bản thể, hay thủ chứng Niết bàn). Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ tát địa thứ sáu trở lên đều có thể nhập diệt định, nhập diệt định tức là “diệt cái thọ mà thủ chứng” ở đây vậy. Nếu thủ chứng thì chỉ mới đi được hai phần ba con đường, và do đó mà “chưa đầy đủ Phật pháp”, không tiến thêm lên các địa trên để đến quả Phật.

Như vậy, để thoát khỏi cái bệnh về Không này chỉ hướng đến bản thể mà bỏ mất thế giới hiện tượng gồm cả chúng sanh trong đó, Bồ tát phải Không luôn cái Không bản thể này, như chúng ta thường thấy có từ ngữ Không Không. Cái Không về bản thể này mà cũng Không, thì không còn chấp vào ‘chỉ cái Không bản thể’, do đó mà vẫn không từ bỏ thế giới hiện tượng, đồng thời thế giới hiện tượng này cũng là Không. Bồ tát đi đến toàn giác bằng cách ôm trọn cả hai thế giới bản thể (chân lý tuyệt đối) và thế giới hiện tượng (chân lý quy ước) vào trong tánh Không. Sở dĩ gọi là toàn giác hoàn toàn, vì Bồ tát không bỏ thế giới hiện tượng, không bỏ chân lý quy ước, và cái này chính là môi trường, chỗ hiện hành của đại bi. Đầy đủ cả Trí và Bi, đó là toàn giác.

Làm sao mà vẫn không từ bỏ thế giới hiện tượng đồng thời vẫn thâm nhập tánh Không? Kinh dạy “lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ”. Không thọ nhận các thọ, đó là nhập diệt thọ tưởng định. Nhưng “lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ” đó là con đường hành trì của Bồ tát. Con đường đó là con đường Trung Đạo: không chỗ thọ mà vẫn thọ nhận các thọ; thọ nhận các thọ mà vẫn không chỗ thọ. Con đường Trung Đạo “Tức Thị” này đi giữa sắc và Không: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”.

“Lấy cái không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ”, đây là hạnh phúc cho riêng mình của Bồ tát, đồng thời không bỏ quên bổn phận – cũng là một hạnh phúc khác – đối với chúng sanh là làm cho họ được hạnh phúc.

“Nếu thân có khổ, bèn nghĩ đến chúng sanh trong các nẻo xấu số mà khởi lòng đại bi. Ta đã điều phục, cũng phải điều phục cho tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bỏ bệnh mà chẳng trừ pháp. Vì đoạn trừ gốc bệnh mà hướng dẫn dạy dỗ chúng sanh.

“Sao gọi là gốc bệnh? Tức là có phan duyên. Khi nào có phan duyên, đó là gốc bệnh. Phan duyên cái gì? Đó là ba cõi. Làm thế nào đoạn dứt phan duyên? Hãy dùng không chỗ đắc. Khi không chỗ đắc thì không có phan duyên. Sao gọi là không chỗ đắc? Đó là lìa hai kiến chấp. Sao gọi là hai kiến chấp? Là kiến chấp bên trong và kiến chấp bên ngoài, cả hai đều không chỗ đắc.

“Ngài Văn Thù Sư Lợi! Như thế gọi là Bồ tát có bệnh điều phục tâm mình. Đoạn dứt cái khổ, già, bệnh, chết, đó là Bồ đề của Bồ tát. Nếu không như vậy thì sự tu trị của Bồ tát không có lợi lạc về trí huệ gì cả. Ví như chiến thắng thù địch mới gọi là anh hùng, người trừ sạch già, bệnh, chết mới gọi là Bồ tát.

Chỉ trừ bỏ bệnh mà chẳng trừ bỏ pháp nghĩa là chỉ trừ bệnh vọng thấy, bệnh nhặm mắt mà không ữừ bỏ cái thấy thanh tịnh và thực tại thanh tịnh.

Phan duyên nghĩa đen là bám nắm, vịn theo. Sự bám nắm vịn theo này phân chia pháp giới thành nhị nguyên ta và cái chẳng phải ta, từ đó mà có tham cái chẳng phải ta, hay ghét cái chẳng phải ta, đủ mọi thứ tốt xấu, phải trái… Tất cả đều từ gốc bệnh phan duyên, nghĩa là từ sự phân chia thành một cái ta chủ thể bên trong và một thế giới đối tượng bên ngoài. Với cái ta chủ thể thì có muôn vàn kiến chấp bên trong và thế giới đối tượng cũng có muôn vàn kiến chấp bên ngoài. Thực tại vốn không có chủ thể đối tượng, không bị giới hạn trong chủ thể giả tạo và đối tượng giả tạo. Nhưng sự phan duyên là sự chủ thể hóa và đối tượng hóa tất cả mọi cái mà nó kinh nghiệm, đó là cái chúng ta gọi là vọng tưởng. Như vậy ba cõi chỉ là sự phan duyên, hay là cái đối tượng hóa bất tịnh (vì phân biệt) của một chủ thể bất tịnh (vì khát ái).

Làm thế nào để đoạn dứt phan duyên? Hãy để cho thực tại tự nó hiện tiền, không khởi lên bất kỳ một sự chủ thể hóa và đối tượng hóa giả lập nào. Khi thấy, nghe, rõ biết mà không có chủ thể thấy nghe rõ biết và đối tượng được nghe thấy rõ biết thì lúc đó thực tại bắt đầu lộ diện. Bởi vì thực tại là sự vắng mặt của chủ thể và đối tượng, cho nên chủ thể và đối tượng chỉ là giả danh, chỉ là “không chỗ đắc”. Không chỗ đắc là tất cả mọi thứ chủ thể hóa thành cái bên trong và mọi thứ đối tượng hóa thành cái bên ngoài phải được xác quyết là không chỗ đắc. Khi bóng này bóng nọ đều không chỗ đắc, toàn bộ mặt gương hiển lộ.

Người chiến thắng tất cả thù địch chủ thể hóa và đối tượng hóa do tự mình khởi lên thành vô minh của mình để chứng ngộ được pháp giới Nhất Tâm thì gọi là anh hùng, là Bồ tát. Tất cả mọi tông phái Phật giáo đều quy về điểm này dù có nhiều phương tiện khác nhau.

“Bồ tát có bệnh lại nghĩ như vầy: Như bệnh của tôi đây không thật, không có; bệnh của chúng sanh cũng không thật, không có. Khi quán sát như vậy mà đối với các chúng sanh nếu khởi lên lòng bi ái kiến thì phải xả bỏ ngay. Vì sao thế? Bồ tát đoạn trừ phiền não khách trần mà khởi đại bi, còn lòng bi ái kiến thì đối với sanh tử tái sanh có lòng chán mệt. Nếu lìa ái kiến thì không có tâm chán mệt, tái sanh nơi nào cũng không bị ái kiến che đậy. Tái sanh như vậy thì giống như một sự giải thoát, mới có thể vì chúng sanh nói pháp mà giải thoát sự trói buộc cho chúng sanh. Như Phật có nói: “Nếu tự mình bị trói buộc mà giải thoát cho sự trói buộc của người khác, chuyện ấy không thể có. Nếu tự mình không bị trói buộc mà giải thoát cho sự bị trói buộc của người khác, chuyện ấy có thể được.”

Thế nên Bồ tát không nên khởi sanh sự trói buộc.

Đoạn trừ phiền não khách trần, tức là phiền não do phân biệt tướng, mà khởi đại bi, đó là đại bi chân thật. Nghĩa là đại bi chân thật không lìa khỏi trí huệ nhìn thấy thật tướng. Còn lòng bi ái kiến là lòng bi do chấp tướng: thấy có tướng mà sanh khởi. Thấy có tướng chúng sanh, rồi tướng chúng sanh giàu khác nghèo khác, chúng sanh đang hạnh phúc, chúng sanh đang đau khổ… đó là kiến. Trên cái kiến ấy, sanh ra cái ái, thương ít thương nhiều, nghèo như ta thì ta thương hơn, khổ như ta thì ta thương hơn, ai thương ta thì ta thương hơn… Lòng bi ái kiến là do thiếu trí huệ nhìn thấu căn bệnh vô minh sanh ra khổ ở nơi mỗi chúng sanh: người nghèo thì khổ theo cách nghèo, nhưng người giàu cũng khổ vì cũng đang điên đảo với vô minh, cũng đang sanh ra bao nhiêu là nhân khổ. Do nhìn thấu gốc bệnh, nên lòng bi trở nên rộng rãi hơn vì không thiên trệ vào một dạng sống đặc biệt nào, và sâu thẳm hơn vì nhìn thấy cơ cấu của khổ nằm nơi mỗi chúng sanh.

Khi đã có lòng bi ái kiến, nghĩa là trí huệ cạn cợt và tình thương thiên lệch như vậy, ấy là tự mình sanh ra một sanh tử méo mó và do đó mà mệt mỏi, chán ngán. Khi đã thấy sanh tử do mình tạo ra như vậy là rối rắm, khó nhọc, phiền toái, làm chán ngán và mệt mỏi, bèn sợ phải tái sanh. Còn nếu lòng bi không có ái kiến, nghĩa là không có những méo mó che đậy, thì một sự tái sanh là một giải thoát. Đi từ một cái Không đến một cái Không, từ một cái không ái kiến đến một cái không ái kiến, đó là giải thoát. Có như thế mới giải thoát cho người khác được.

Tóm lại lòng bi mà không có trí huệ đi kèm là một lòng bi uổng phí, và không những uổng phí mà còn không lợi mình lợi người, vì do khởi sanh sự trói buộc vậy. Một lòng bi không khởi tướng để tự trói buộc mình sẽ đưa hành giả thâm nhập pháp tánh để thể nhập vào năng lực nguyên sơ của pháp tánh.

“Sao gọi là trói buộc? Sao gọi là giải thoát? Tham đắm vào giải thoát khỏi thế gian mà không dùng phương tiện giải thoát là sự trói buộc của Bồ tát; dấn thân vào cuộc đời thế gian mà dùng đầy đủ phương tiện giải thoát là sự giải thoát của Bồ tát. Kinh nghiệm mùi vị thiền định mà không thiện xảo trong phương tiện giải thoát là trói buộc; kinh nghiệm mùi vị thiền định mà thiện xảo trong phương tiện giải thoát là giải thoát.

“Trí huệ không hội nhập với phương tiện giải thoát là trói buộc; trí huệ hội nhập với phương tiện giải thoát là giải thoát. Phương tiện giải thoát không hội nhập với trí huệ là trói buộc; phương tiện giải thoát hội nhập với trí huệ là giải thoát.

Trí huệ chú trọng tới mặt bản thể, thể tánh, tức là tánh Không, chân lý tuyệt đối, thế giới của Lý. Phương tiện chú trọng về mặt hiện tượng, hình tướng, là chân lý quy ước, tương đối, thế giới của Sự. Trí huệ là sự tích tập trí huệ về tánh Không. Phương tiện là sự tích tập công đức. Chỉ chú trọng một mặt mà lơ là với mặt kia thì đó là trói buộc. Sự hội nhập nhuần nhuyễn giữa trí huệ và phương tiện làm nên con đường Bồ tát. Sở dĩ phương tiện được gọi là phương tiện giải thoát vì nó phối hợp với tánh Không. Trí huệ càng soi chiếu rõ ràng bao nhiêu thì phương tiện càng được thấy rõ và sử dụng có hiệu lực bấy nhiêu. Chính nhờ phương tiện mà hành giả càng đi sâu vào tánh Không và cũng chính phương tiện là cái đặc trưng của Đại thừa để phân biệt với những con đường chỉ “tham đắm vào sự giải thoát khỏi thế gian”.

“Sao gọi là trí huệ không có phương tiện thì trói buộc? Trí huệ không hội nhập với phương tiện, chỉ tập trung vào Không, Vô tướng, Vô nguyện, được thúc đẩy bởi động cơ là lòng bi ái kiến, không tập trung vào sự trau dồi các tướng tốt, sự trang nghiêm cõi Phật và sự thành tựu cho chúng sanh. Đó là sự trói buộc của trí huệ không có phương tiện.

“Sao gọi là trí huệ có phương tiện thì giải thoát? Trí huệ hội nhập với phương tiện được thúc đẩy bởi động cơ là đại bi và như vậy tập trung vào sự trau dồi các tướng tốt, sự trang nghiêm cõi Phật và sự thành tựu cho chúng sanh mà vẫn luôn luôn ở trong Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đó là sự giải thoát của trí huệ có phương tiện.

“Sao gọi là phương tiện không có trí huệ thì trói buộc? Phương tiện không hội nhập với trí huệ mà trồng các cội công đức nhưng không hồi hướng chúng cho giác ngộ trong khi vẫn ở trong các phiền não tham dục, sân hận, tà kiến… Đó là sự trói buộc của phương tiện không có trí huệ.

“Sao gọi là phương tiện có trí huệ thì giải thoát? Phương tiện hội nhập với trí huệ mà hồi hướng các cội công đức cho giác ngộ trong khi lìa các phiền não tham dục, sân hận, tà kiến… Đó là sự giải thoát của phương tiện có trí huệ.

Phương tiện bao gồm phạm vi rất rộng, chẳng hạn những phương tiện tu hành, tức là các phương pháp thực hành để đạt tánh Không, phương tiện để cứu độ giáo hóa chúng sanh, phương tiện để sống cuộc đời trong thế gian… Đến cấp độ cao của những Đại Bồ tát, của Phật, thì tất cả sanh tử thế gian này là phương tiện.

Phương tiện là một yếu tố then chốt cho cuộc đời Bồ tát thậm chí có thể nói không có phương tiện thì không có Bồ tát. Nhưng dù là gì, bao giờ phương tiện cũng kết hợp với trí huệ. Phương tiện đến đâu thì trí huệ đến đó, và trí huệ đến đâu thì phương tiện đến đó.

Trí huệ tánh Không mà không có phương tiện thì chỉ một mực nhắm đến tánh Không và như vậy là “tham đắm vào giải thoát khỏi thế gian” mà không có phương tiện để ra khỏi chính sự giải thoát đó.

Còn phương tiện mà không có trí huệ tánh Không thì dù sống một cuộc đời cao cấp, chết có thể sanh lên các cõi trời, nhưng cũng bị trói buộc vào ba cõi khổ đau sanh tử. Phương tiện không có trí huệ thì dù có tu hành, làm phước… cũng là những pháp hữu vi phước đức hữu lậu, không thông được với giải thoát.

Sự thực hành phối hợp trí huệ và phương tiện là sự thực hành chân thật của bồ tát. Một lần nữa, chúng ta thấy tính cách Trung Đạo của con đường Bồ tát là thế nào.

Sự phối hợp của phương tiện và trí huệ càng lúc càng nhuần nhuyễn theo với công phu thực hành, cho đến lúc phương tiện là trí huệ, trí huệ là phương tiện. Ớ đâu có phương tiện ở đó có trí huệ, ngay nơi phương tiện là trí huệ và ngược lại. Thí dụ, tụng kinh (phương tiện) và thật nghĩa (trí huệ): đến một lúc nào tụng kinh có nghĩa là thật nghĩa hiển hiện, và thật nghĩa (trí huệ) chính là sự tụng kinh (phương tiện). Chẳng hạn với những thiền sư đã chứng ngộ thì cái gì cầm trong tay cũng là một phương tiện để chỉ dạy: một cây quạt, một tách trà, hay một cái cuốc… Hoặc là phương tiện ngồi thiền: ngồi thiền không còn là một phương tiện để đạt đến trí huệ, mà khi ngồi thiền, đó là trí huệ. Ngồi thiền là sự hiển bày của trí huệ. Đây là “Phương tiện có trí huệ thì giải thoát”.

Với sự tu hành càng sâu rộng thì trí huệ và phương tiện dần dần nhập thành một vị. Nghĩa là tất cả trói buộc đều là giải thoát, tất cả cái gì có trong cuộc đời thế gian đều là phương tiện để tu hành, để chỉ bày cho người khác thật tướng. Như nước ở đâu thì mặt trăng ở đó, và nơi nào có mặt trăng nơi đó là nước.

“Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát có bệnh nên quán xét các pháp như vậy. Lại quán xét thân là vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã, đó gọi là trí huệ. Dù thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả, không chán nản mỏi mệt, đó gọi là phương tiện. Lại quán xét thân: thân không rời bệnh, bệnh không rời thân, bệnh ấy thân ấy chẳng phải mới chẳng phải cũ, đó gọi là trí huệ. Dù thân có bệnh mà không tìm sự vĩnh viễn diệt mất, đó gọi là phương tiện.

“Dù thân có bệnh mà thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho tất cả…”, thân là phương tiện. Nhưng phương tiện ấy chỉ thật là phương tiện khi có trí huệ nhìn vào nó.

Quán thân không có tự tánh, chính là tánh Không, do đó dù có thân thì có bệnh, nhưng bệnh ấy thân ấy chẳng phải mới, chẳng phải cũ, như hoa đốm giữa không trung, như bóng trong gương, đó là trí huệ thấu rõ tánh Không. Tuy có thân thì có bệnh, nhưng chính nhờ thân huyễn này mà có mặt nơi sanh tử, cùng bệnh với tất cả chúng sanh, có như vậy mới giúp đỡ, hướng dẫn chúng sanh giải thoát được, do đó mà không bỏ thân ấy bệnh ấy mà tìm sự vĩnh viễn diệt mất. Như vậỵ thân này bệnh này chính là phương tiện, và không bị vướng mắc vào thân này bệnh này, đó là trí huệ.

Trí huệ là sự chứng đắc Pháp thân, là sự giải thoát đích thực và rốt ráo. Nhưng Pháp thân là Không, Vô tướng, Vô nguyện rốt ráo, nên Pháp thân không thể trực tiếp và cụ thể cứu độ chúng sanh. Muốn có mặt trong sanh tử để cứu độ chúng sanh phải có sắc thân (gồm Báo thân, thân thọ phước báo và Hóa thân, thân có sắc tướng thấy được). Cho nên sắc thân hay Báo thân và Hóa thân là sự thành tựu của phương tiện. Như vậy với con đường Bồ tát, sắc thân hay Báo thân và Hóa thân quan trọng không kém gì Pháp thân, phương tiện quan trọng không kém gì trí huệ.

“Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát có bệnh nên điều phục tâm mình như vầy: chẳng trụ trong sự điều phục cũng chẳng trụ trong sự không điều phục. Tại sao thế? Nếu trụ trong sự không điều phục tâm, đó là pháp của người ngu si. Nếu trụ trong sự điều phục tâm, đó là pháp của Thanh Văn. Thế nên Bồ tát không nên trụ nơi tâm điều phục hay tâm không điều phục. Lìa hai pháp này là Bồ tát hạnh.

Không điều phục tâm, để cho tâm tha hồ phóng tưởng tạo ra sanh tử cho chính mình, đó là hạnh của người phàm phu không trí. Còn một mực điều phục tâm, cắt đứt nó với cảnh bên ngoài, đi đến diệt thọ tưởng định là Niết bàn, đó là hạnh của Thanh Văn. Một bên buông lung cho sanh tử, một bên đạt đến sự diệt dứt của Niết bàn. Một bên buông lung cho tư tưởng, một bên diệt dứt tư tưởng: cả hai đều không biết cái dụng của tâm là tư tưởng, dù một bên là cực thấp một bên là cực cao. Một bên không sợ tư tưởng, một bên rất sợ tư tưởng, do đó mà không điều phục và phải điều phục, nhưng dù không điều phục hay điều phục đều không rõ thấu bản chất của tư tưởng.

Bồ tát do rõ thấu bản chất của tư tưởng nên đi con đường Trung Đạo. Tư tưởng là cái dụng của tâm, sự biểu hiện của tâm. Nhưng tâm vốn không có nền tảng, không có sự tánh nên tư tưởng cũng không có nền tảng, không có tự tánh. Nó vô tội vì không có bản chất, không có bản chất nên không ô nhiễm được tâm vốn tuyệt đối không có bản chất. Cũng như sóng vô tội vì nó chẳng làm gì được với đại dương. Và dù nó xuất hiện nó vẫn là nước của đại dương.

So với Thanh Văn, Bồ tát có một cái nhìn sâu hơn vào mọi vấn đề, và từ cái nhìn sâu xa đó, mà có pháp tu tương ứng. Dù chỉ trên bình diện ý thức nông cạn, chúng ta cũng có thể hình dung sự tự do của Bồ tát “không trụ nơi tâm điều phục cũng không trụ nơi tâm chẳng điều phục” là lớn lao, bao la đến chừng nào. Nhưng với chúng ta, chúng ta phải hiểu cho được pháp tu này để thực hành, vậy thì “không trụ nơi tâm điều phục hay tâm không điều phục”, đó là cái gì?

“Ở nơi sanh tử mà chẳng làm hạnh ô nhiễm, trụ trong Niết bàn mà chẳng vĩnh viễn diệt độ là Bồ tát hạnh. Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh là Bồ tát hạnh. Chẳng phải hạnh nhơ, chẳng phải hạnh sạch là Bồ tát hạnh. Tuy vượt khỏi hạnh Ma mà thị hiện hàng phục các Ma là Bồ tát hạnh. Cầu Nhất Thiết Trí mà không cầu khi chưa đúng lúc là Bồ tát hạnh. Tuy quán các pháp chẳng sanh mà không nhập chánh vị là Bồ tát hạnh. Tuy quán mười hai duyên khởi mà vào các tà kiến là Bồ tát hạnh.

Về mặt thực tiễn, để thấu hiểu những câu này hầu thực sự bắt đầu đi con đường Bồ tát hạnh, chúng ta phải thực sự có một kinh nghiệm thấy tận mặt bản lai diện mục của mình, thấy Pháp tánh, tánh Không, Pháp thân… của mình. Khi kinh nghiệm được Cái Ấy, chúng ta mới hiểu chính Cái Ấy “ở nơi sanh tử mà chẳng ô nhiễm, trụ trong Niết bàn mà chẳng vĩnh viễn diệt độ”. Cái Ấy “chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh hiền thánh”. Cái Ấy “chẳng phải hạnh nhơ, chẳng phải hạnh sạch”, rồi tương ưng theo Cái Ấy, tùy thuận theo Cái Ấy mà tu hành Bồ tát hạnh.

Hạnh Bồ tát không phải là những gì nhân tạo được lập ra rồi ai làm theo bèn trở thành Bồ tát. Hạnh Bồ tát là làm theo pháp tánh, theo Chân Như, theo Phật tánh trong đủ mọi mặt của nó. Bởi thế, chẳng phải là việc làm “xóa sạch cái nhơ thì thành cái sạch” hay “bôi bẩn cái sạch thì thành cái nhơ” theo kiểu nhị nguyên. Mà việc làm của người tu hành Bồ tát là tùy thuận với pháp tánh vốn không nhơ không sạch: chưa từng có một pháp để có thể làm cho nhơ, chưa từng nhơ mà muốn làm sạch thì làm cái gì bây giờ? Theo nghĩa chữ Bồ tát (Bodhisattva), dịch Hán Việt là Hữu tình giác, hay chúng sanh giác hay một chúng sanh biết. Biết (giác) cái gì? Biết Pháp tánh, Pháp thân rồi từ đó mà ta tu để biết hoàn toàn Pháp tánh, Pháp thân và hiển lộ đủ Ba Thân thì thành Phật. Tóm lại, Bồ tát chỉ có, Bồ tát hạnh chỉ có, đối với một người nào đó tự nhận ra được Pháp tánh, Pháp thân, Bản Tâm… của mình.

Chỉ khi nào thấy được tánh của các pháp thì mới có thể ở nơi tướng các pháp mà tu Bồ tát hạnh. Lúc đó mới có thể “ở nơi sanh tử” (nơi thế giới hình tướng) “mà chẳng làm hạnh ô nhiễm” (vì vẫn hằng tương ưng với pháp tánh vốn không ô nhiễm). Còn không thì chúng ta vẫn chưa thể học kinh; những lời kinh trên chỉ là những lý thuyết đẹp đẽ mà xa vời, chẳng ăn nhằm gì với sự sống, hơi thở, cử động, nói năng, tư tưởng của chúng ta cả. Chỉ khi nào thấy được đại dương, hay hơn nữa, tánh nước của đại dương, lúc đó chúng ta mới có thể thật sự đi con đường Trung Đạo của Bồ tát, nghĩa là vẫn sống trong thế giới của sóng, của hình tướng sanh tử, mà không lìa rời tánh nước của đại dương, đồng thời không hòa làm một với đại dương bằng cách từ bỏ các sóng “khi chưa đúng lúc” hay nói cách khác “không nhập chánh vị”.

“Tuy hòa hợp với tất cả chúng sanh mà không ái luyến là Bồ tát hạnh. Tuy thích xa lìa mà chẳng nương vào sự chấm dứt thân tâm là Bồ tát hạnh. Tuy hành ba cõi mà chẳng làm hư hoại pháp tánh là Bồ tát hạnh. Tuy hành tánh Không mà trồng các cội công đức là Bồ tát hạnh. Tuy hành Vô tướng mà độ chúng sanh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Vô tác (hay Vô nguyện) mà tự hiện thọ thân là Bồ tát hạnh. Tuy hành Vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Sáu ba la mật mà biết khắp tâm, tâm sở của chúng sanh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Sáu thông mà không dứt hết các lậu(phiền não) là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Tâm vô lượng mà chẳng ham mê sanh vào cõi Phạm thiên là Bồ tát hạnh. Tuy hành thiền định, giải thoát và tam muội mà không theo thiền định thọ sanh là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Niệm xứ mà chẳng rốt ráo lìa vĩnh viễn thân, thọ, tâm pháp là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Chánh cần mà không xả bỏ thân tâm tinh tấn là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bốn Như Ý Túc mà được thần thông không nỗ lực là Bồ tát hạnh. Tuy hành Năm Căn mà không phân biệt các căn chúng sanh lanh chậm là Bồ tát hạnh. Tuy hành Năm Lực mà thích cầu Mười Lực của Phật là Bồ tát hạnh. Tuy hành Bảy Giác chi mà khéo rành trí huệ Phật là Bồ tát hạnh. Tuy hành Tám Chánh đạo mà vui thích hành Phật đạo vô lượng là Bồ tát hạnh. Tuy hành các pháp trợ đạo chỉ quán mà rốt ráo chẳng sa vào tịch diệt là Bồ tát hạnh. Tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân thể là Bồ tát hạnh. Tuy hiện oai nghi của Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chẳng bỏ pháp Phật là Bồ tát hạnh. Tuy tùy thuận tánh rốt ráo thanh tịnh của các pháp mà tùy theo chỗ ứng hiện thân mình là Bồ tát hạnh. Tuy thấy các quốc độ chư Phật vĩnh viễn vắng lặng như hư không mà biểu hiện ra đủ thứ cõi Phật thanh tịnh là Bồ tát hạnh. Tuy đắc Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn mà chẳng bỏ con đường Bồ tát là Bồ tát hạnh.”

Khi trưởng giả Duy Ma Cật nói những lời này, có tám ngàn thiên tử trong đại chúng đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi cùng phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Kinh tiếp tục triển khai về Bồ tát hạnh. Những pháp tu của Thanh Văn, Bích Chi Phật được Bồ tát sử dụng như những phương tiện, nhưng không xem chúng như là cứu cánh để chứng đắc. Vì không chứng đắc Niết bàn ở nửa đường do đó mà có thể đi xa hơn, có thêm nhiều cái quý báu được tìm thấy hơn, hai sự tích tập trí huệ và công đức được trọn vẹn hơn, rồi lấy đó làm những phương tiện để cứu độ chúng sanh.

Sự thực hành con đường Bồ tát là sự thực hành khó gấp đôi: “tuy hòa hợp với tất cả chúng sanh mà không ái luyến…, tuy hành ba cõi mà chẳng mất tánh Không…, tuy hành Vô tướng mà có chúng sanh để độ…, tuy hành các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà dùng tướng hảo trang nghiêm sắc thân…” Có thể nói cuộc đời người hành đạo Bồ tát chỉ toàn gặp những công án không thể giải quyết bằng ý thức cạn cợt, mà chỉ phá thấu bằng sự thực hành có hiệu lực và thường trực tinh tấn để có được cái thấy đầu tiên về pháp tánh. Chỉ có pháp tánh mới thực sự giải quyết được những vấn nạn này, bởi vì tất cả những việc làm của Bồ tát đều phải xảy ra trên nền tảng pháp tánh.

Con đường Bồ tát là cực kỳ khó khăn – và cũng vì thế mà cực kỳ vinh quang – bởi thế mà không có sự sùng mộ, không đủ niềm tin, không đủ sức cầu nguyện thì hành giả không thể tiếp xúc tương ưng được với lực hộ trì của chư Đại Bồ tát, chư Tổ sư, chư Phật để có thể học. Khi toàn bộ cuộc sống là những bài học, cái gì xảy ra cũng là sự học, mà không có sức hộ trì, không gặp được bạn đạo đồng hành, không gặp được những vị thầy Bồ tát, thì không những con đường Bồ tát là vô phương mà còn nguy hiểm.

Có thể nói con đường Bồ tát nằm trong một chữ khéo (thiện). Khéo nói lên một thái độ hành xử trên con đường Trung Đạo: Tuy hành giải thoát mà không giải thoát, vẫn làm mọi việc để giúp đỡ chúng sanh. Chữ Khéo này được diễn tả trong cách hành văn “Tuy… mà…” Chúng ta thấy trong kinh điển Đại thừa khi nói đến Bồ tát thường dùng chữ Khéo, khi nói đến Trung Đạo thường hay dùng chữ Mà (ở nơi sanh tử mà Niết bàn, ở nơi sắc mà vẫn là Không, vắng lặng như hư khôngmàbiểu hiện ra…). Học được và hành được theo những chữ này người ta hiểu rõ thêm về Đại thừa, về hạnh của Bồ tát.

Khi trưởng giả Duy Ma Cật nói những lời này có tám ngàn thiên tử phát tâm Bồ đề, bởi vì con đường Bồ tát quá đẹp, quá Chân, quá Thiện, quá Mỹ. Nó bao gồm tất cả những gì đẹp đẽ nhất của thế gian này, tất cả những đạo đức, sự thật, ước vọng, sự toàn hảo… Cái đẹp đó là do Trung Đạo: ở trong chân lý tối hậu (tánh Không) mà không bỏ chân lý quy ước (sanh tử), và nhờ như vậy, thấy được thật tánh của sanh tử chính là Niết bàn (tánh Không). Như thế, Bồ tát là người đưa chân lý quy ước của sanh tử đến ý nghĩa tối hậu của nó, và đồng thời đưa chân lý tối hậu đến chỗ trọn vẹn của nó. Như kinh nói, Phật là bậc đồng thời thấy chân lý tối hậu (tánh Không) và chân lý quy ước (thế giới sai biệt) trong cùng lúc, nghĩa là đồng thời sử dụng căn bản trí (thấu đạt pháp tánh) và sai biệt trí hay hậu đắc trí (biết rõ ràng các hiện tượng) trong cùng một lúc.

Bài viết Bồ tát có bệnh không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/bo-tat-co-benh-khong-317/feed/ 0