Covid-19 Archives - Nghĩa NB Blog cá nhân của Nghĩa NB Fri, 04 Mar 2022 08:27:06 +0000 vi hourly 1 Kinh nghiệm làm F1 kinh niên https://nghianb.org/kinh-nghiem-lam-f1-kinh-nien-311/ https://nghianb.org/kinh-nghiem-lam-f1-kinh-nien-311/#respond Fri, 04 Mar 2022 08:25:51 +0000 https://nghianb.org/?p=311 Bài viết chỉ chia sẻ mang tính cá nhân, không xung đột lợi ích, không quảng cáo. Mọi người có thể tham khảo và chia sẻ theo ý thích, vì nó free. Cho tới giờ, sau hơn 2 năm dịch bệnh diễn ra, tôi tiếp xúc với không biết bao nhiêu F0 gần gũi tớiXem thêm

Bài viết Kinh nghiệm làm F1 kinh niên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Bài viết chỉ chia sẻ mang tính cá nhân, không xung đột lợi ích, không quảng cáo. Mọi người có thể tham khảo và chia sẻ theo ý thích, vì nó free.

Cho tới giờ, sau hơn 2 năm dịch bệnh diễn ra, tôi tiếp xúc với không biết bao nhiêu F0 gần gũi tới mức chỉ thiếu ôm hôn và chạm da thịt thôi, nói chuyện lâu, cà phê lâu, ngồi uống bia tâm sự cũng có luôn… Nhưng tới giờ, tôi đã ngưng test rồi vì test phí tiền, mãi không ra cái gì giống như +++ cả.

Đây là một vài điều tôi đã áp dụng, nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với khuyến cáo, và điều kiện của tất cả mọi người nên tôi vẫn nói chỉ là trải nghiệm cá nhân!

nghia_nb_123
Nếu có thể, hãy về với thiên nhiên nhiều hơn, tìm về nơi thoáng đãng, khí hậu trong lành, dịch bệnh không tới đây đâu!

TÔI BỊ NHIỄM TRÙNG HÔ HẤP MẠN TÍNH

Từ bé tôi đã nổi tiếng “dặt dẹo”, cái này mọi người cứ tham khảo bất kỳ người thân nào của tôi, bạn học nào của tôi, đồng nghiệp cũ nào của tôi, ai cũng biết tôi hay ốm tới mức như thế nào. Nếu không nỗ lực thể hiện khả năng công việc của mình thì có lẽ các sếp cũ đã đuổi việc tôi từ lâu rồi vì tôi hay ốm, hay phải xin nghỉ phép do ốm nặng mà còn sợ lây sang đồng nghiệp.

Tuổi trẻ của tôi ngập ngụa trong kháng sinh, chỉ có vài loại tiêm là tôi không có nhiều trải nghiệm chứ dăm ba loại thuốc kháng sinh uống thì tôi nghĩ combo 3 loại cũng đã rồi, combo 2 thì thường xuyên, 1 loại thì liều lượng chắc maximum hoặc vượt cả khuyến cáo vì lắm lúc tôi thấy tuyệt vọng với cơ thể mình quá luôn.

Chứng bệnh viêm họng mạn tính, viêm tai giữa mạn tính, nhiều lúc viêm phế quản mạn tính, họng tôi lúc nào cũng lắm dịch nhầy tiết ra liên tục có vẻ như lúc nào nó cũng phải căng mình để oánh nhau với vi khuẩn, khói bụi, hóa chất… hay sao ấy. Cơ mà thế cũng hay, người tôi lúc nào cũng ấm, nên mấy cô người yêu cũ thích lắm, ôm, nắm tay đều thích ?)

Tuy nhiên, cách đây hơn 10 năm, khi vào viện trong 1 đợt bệnh viêm đường hô hấp cấp rất nặng, tới mức tôi phải chủ động xin được đi viện (bình thường tôi ghét đi viện lắm, và cũng không thích phiền ai khi mình bị bệnh). Vào viện, bác sỹ rất ngạc nhiên vì bạch cầu tăng kinh khủng mà thân nhiệt tôi chỉ ở mức bình thường (tôi nhớ lúc đó bác sỹ nói khoảng 37,5 độ C và đó cũng là thân nhiệt bình thường của tôi). Mặc dù trong điều kiện không bệnh tật, khi tập yoga tôi có thể điều chỉnh thân nhiệt và nhịp tim xuống thấp hơn chút để đỡ bị “lão hóa cấp tốc” nhưng rõ ràng là cơ chế “báo động” bằng thân nhiệt của cơ thể tôi đã bị tổn thương nặng nề sau nhiều năm tháng vật lộn với viêm đường hô hấp trên mạn tính, và chắc chắn là nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc thường trú trong đường hô hấp trên của tôi rồi.

TRONG CÁI RỦI CÓ CÁI MAY

Trên thực tế, lớp kháng thể, đặc biệt là IgA, sIgA ở trong lớp chất nhầy trên niêm mạc được hô hấp trên như họng, khí quản… đóng vai trò cực kỳ, cực kỳ quan trọng giúp bảo vệ cơ thể trước các nguy cơ gây bệnh từ bên ngoài bao gồm Virus (cả con Coronavirus, Cúm…), vi khuẩn, hóa chất độc hại… Mà cái này thì cơ thể tôi lúc nào cũng trong trạng thái báo động cao nhất sau nhiều năm vật lộn với các chứng nhiễm trùng mạn tính ở đường hô hấp trên. Tôi cũng hay ho, đây là phản xạ tự nhiên để tống dịch nhầy, đặc biệt là dịch nhầy trên đường hô hấp trên của cá nhân tôi có vẻ nhiều hơn so với người bình thường.

Ngoài ra, ý thức được vai trò của đường ruột trong cuốn sách rất nổi tiếng của tác giả người Đức “Ruột ơi là ruột” và nhiều nghiên cứu khác liên quan tới các chủng vi khuẩn có lợi cho sức khỏe, tôi thường lựa chọn các chủng vi khuẩn có giá trị cao (không phải chế phẩm nào bán trên thị trường cũng có giá thành phản ánh đúng giá trị của nó) để nâng cấp đường ruột. Quá trình này mất hơn 1 năm trời, tôi gọi nó là “cuộc tái thiết vĩ đại trong đường ruột” của cá nhân mình và hệ miễn dịch của tôi tốt hơn đáng kể, hệ tiêu hóa cũng ổn định, kể cả vấn đề liên quan tới stress (trục não – ruột là 1 khái niệm mới trong đó phản ánh những vấn đề stress có liên hệ mật thiết tới sức khỏe đường ruột).

ruot-oi-la-ruot
Một cuốn sách rất hay về đường ruột của bạn tiến sỹ trẻ người Đức

Và tôi nghĩ, cái may mắn đó của tôi là cơ thể tôi luôn trong trạng thái báo động từ trên đường hô hấp trên tới trong máu, với một thân nhiệt bình thường, các chức năng khác của cơ thể vẫn bình thường trong khi hệ miễn dịch của tôi lúc nào cũng cảnh giác.

Ngoài ra, chú trọng tới Dinh dưỡng, Vận động bình thường, Môi trường thoáng khí, Sử dụng tinh dầu (vừa thơm phòng mà lại có tác dụng làm sạch không khí, hỗ trợ diệt virus trong môi trường sống)…

Nhờ đó, tới giờ, tôi vẫn tạm thời rất tự tin với biệt danh “Siêu F1” hay “Đại ca F1” mà một số bạn bè đặt cho mình.

MỘT VÀI KINH NGHIỆM CÁ NHÂN RÚT RA

COVID chỉ là vấn đề trong ngắn hạn, thế giới sẽ còn tiếp diễn trong hàng nghìn, chục nghìn năm nữa và dịch bệnh nguy hiểm hơn covid sẽ lại tới, nếu như con người cứ dựa dẫm vào vxin để phòng bệnh đặc hiệu thì tôi nghĩ, chỉ 100 năm nữa, 1 đứa trẻ sẽ được xài tới 1000 loại vxin trong suốt cuộc đời. Thật kinh khủng.

Điều tôi tin tưởng cho tới giờ, đó là cơ thể con người đã được trang bị những vũ khí để phòng vệ không đặc hiệu (có nghĩa là nó có thể xử lý nhiều mầm bệnh chứ không chỉ riêng biệt 1 loại mầm bệnh, virus, vi khuẩn nào), cùng với đó là cơ chế tự hoàn thiện, tiến hóa không ngừng khi phải đối diện với các nguy cơ mới. Đó là lý do tại sao chúng ta tồn tại được tới bây giờ. Tất nhiên, các loại bệnh đã chủng ngừa với vxin như Lao, Uốn ván, Ho gà… tôi tin rằng lợi ích vượt trội nguy cơ, nhưng với virus là câu chuyện khác hẳn.

Với cá nhân tôi, đến giờ vẫn an toàn trước COVID, tuy nhiên, bạn bè, người thân… không như vậy, ai nhẹ thì cũng đã vật vã với bệnh một thời gian, ai nặng và có bệnh nền nhiều năm thì cũng đi rồi. Mấy điều đơn giản tôi áp dụng và thấy hiệu quả cho bản thân, bên cạnh yếu tố “cơ địa” của mình.

  1. Cảm ơn bệnh tật cũ của tôi vì tôi thấy mình vật vã khủng khiếp hơn rất nhiều người COVID hiện tại rồi nên thấy cũng không căng thẳng lắm, ngoài ra, nhờ bị bệnh nhiễm trùng mạn tính trong nhiều năm, cơ thể của tôi lúc nào cũng trong trạng thái “cảnh giác cao độ” với mọi thứ tào lao có thể gây hại cho bản thân, nên có khi có mấy em Cô vy đã láo toét chui vào đâu đó trong đường hô hấp trên của tôi và bị đánh chén rồi mà tôi không biết do công việc đi tiếp xúc với rất nhiều người F0 từ trước tới giờ.
  2. Tiêm vxin 2 mũi Astra. Tôi tiêm 2 mũi và cũng không có ý định tiêm mũi thứ 3 trừ khi quy định bắt buộc. Tôi cũng tiêm Astra vì thấy cơ chế cùng thiết kế của loại vxin này khá “truyền thống” và có vẻ an toàn.

Vxin mRNA quá mới, và sau khi tham khảo về các tác dụng bất lợi với cơ thể thì tôi rút lại quan điểm cho rằng nó là loại “xịn nhất”. Nội dung bài này không bàn sâu về vấn đề vxin nên xin phép không chia sẻ thêm.

  1. Sử dụng khẩu trang khi đi vào khu vực đông người, đứng sát nhau và nhiều nguy cơ chứ không sử dụng khẩu trang ở ngoài trời thoáng đãng mát mẻ (không hiểu sao giờ vẫn chưa bỏ quy định ngược đời đó đi)
  2. Luôn có thói quen súc họng sát trùng (tôi dùng PlasmaKare vì nó hiệu quả, và vị rất dễ chịu, mục đích chính là tốt cho bản thân chứ không phải PR)
  3. Vệ sinh tay thường xuyên: thói quen này tôi có từ nhỏ rồi, khi mới có xà phòng, tới khi có rửa tay khô, do đường tiêu hóa kém và tuổi thơ hay bị giun đũa nên tôi ám ảnh lắm, lắm lúc còn bị đánh giá là sạch sẽ quá mức!
  4. Xông tinh dầu trong nhà. Tôi thích mùi hương, mũi tôi khá thính, nếu không muốn nói là quá thính. Tinh dầu oải hương là mùi tôi mê nhất trong các loại tinh dầu dùng để xông, nó vừa giúp thư giãn, vừa giúp hỗ trợ làm sạch không khí trong môi trường sống.
  5. Chú ý dinh dưỡng: trên thế giới có cả 1 chuyên ngành về “DINH DƯỠNG TRỊ LIỆU” không chỉ đơn thuần là bổ sung cho đủ để khỏi thiếu mà còn điều trị bệnh bằng chế độ dinh dưỡng thích hợp. Chẳng hạn như sử dụng D3 hàng ngày để đảm bảo lượng D3 trong máu luôn đủ, giảm tới 14 lần nguy cơ trở nặng ở bệnh nhiễm trùng hô hấp do Corona chủng mới gây ra (COVID), và nhiều bệnh nhiễm trùng khác, trong khi chi phí cho sp chất lượng cũng rất rẻ, quá rẻ, tại sao không tập thói quen dùng hàng ngày. Cũng có nhiều loại dưỡng chất khác, rất thiết yêú, giúp tăng khả năng chống chọi bệnh tật, nâng cao đề kháng, nâng cao trí tuệ, nâng cao khả năng sinh sản…. nhưng không phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người Việt Nam mà thật tiếc là chúng ta không tận dụng bổ sung mỗi ngày. Tới khi bị bệnh, những người thiếu các vi chất lại chính là nhóm đối tượng nguy cơ lớn nhất, nguy cơ trở nặng, nguy cơ tử vong…
  6. Cố gắng duy trì mọi công việc như bình thường, không hoang mang lo lắng, tập trung vào việc tạo ra giá trị để tinh thần luôn thoải mái. Bệnh từ tâm mà ra, tâm loạn thì thân không bệnh mới lạ!

Chúc cho tất cả anh chị hữu duyên xem nội dung này đều có Thân Tâm An Lạc!

Bài viết Kinh nghiệm làm F1 kinh niên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/kinh-nghiem-lam-f1-kinh-nien-311/feed/ 0 311
Bài học từ 10 quan niệm sai lầm trong Đại dịch cúm 1918, đại dịch lớn nhất lịch sử loài người https://nghianb.org/bai-hoc-tu-10-quan-niem-sai-lam-trong-dai-dich-cum-1918-dai-dich-lon-nhat-lich-su-loai-nguoi-178/ https://nghianb.org/bai-hoc-tu-10-quan-niem-sai-lam-trong-dai-dich-cum-1918-dai-dich-lon-nhat-lich-su-loai-nguoi-178/#respond Wed, 16 Jun 2021 09:57:39 +0000 https://nghianb.org/?p=178 Mặc dù thế giới đã chứng kiến những đại dịch trước đó, những đại dịch thậm chí còn tồi tệ hơn. Đại dịch cúm năm 1918, vẫn được nhắc tới một cách nhầm lẫn là “Cúm Tây Ban Nha.” Những nhận thức sai lầm về đại dịch này có thể làm gia tăng thêm nhữngXem thêm

Bài viết Bài học từ 10 quan niệm sai lầm trong Đại dịch cúm 1918, đại dịch lớn nhất lịch sử loài người đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Mặc dù thế giới đã chứng kiến những đại dịch trước đó, những đại dịch thậm chí còn tồi tệ hơn. Đại dịch cúm năm 1918, vẫn được nhắc tới một cách nhầm lẫn là “Cúm Tây Ban Nha.” Những nhận thức sai lầm về đại dịch này có thể làm gia tăng thêm những nỗi sợ hãi về COVID-19, và bây giờ là thời điểm đặc biệt tốt để sửa lại chúng.

Một số phần in nghiêng trong các đoạn là ý kiến của dịch giả, còn lại đều trích dẫn nguyên văn trong Anh bản. Hi vọng sẽ giúp ích cho quý độc giả hiểu thêm về đại dịch 1918 khủng khiếp, mà nếu so với COVID về mức độ hủy diệt thì COVID-19 chưa thể so sánh được bằng 1 phần.

dai_dich_cum_tay_ban_nha

Đại dịch: Đó là một từ đáng sợ.

Vào năm 1918, khoảng 50-100 triệu người được cho rằng đã chết, tương đương với khoảng 5% dân số thế giới lúc đó. Một nửa tỷ người đã nhiễm.

Đặc biệt đáng chú ý là dịch cúm năm 1918 lại có xu hướng thiên lệch lấy đi sinh mạng của đa số người lớn ở độ tuổi trẻ, khỏe mạnh, đối lập với những trẻ em và người cao tuổi, những đối tượng mà thường dễ bị tổn thương nhất. Một số người cũng đã gọi đây là Đại dịch lớn nhất trong lịch sử.

Đại dịch cúm năm 1918 là một chủ đề được bàn tới bàn lui suốt thế kỷ qua. Các nhà sử học và các nhà khoa học đã đề xuất một số giả thuyết về nguồn gốc, sự lây lan và hậu quả của đại dịch. Chính vì thế, nhiều quan niệm sai lần về dịch bệnh đã xuất hiện.

Bằng cách chỉnh sửa 10 nhận thức sai lầm này, mọi người có thể hiểu biết tốt hơn về điều gì đang thực sự xảy ra và giảm thiểu thiệt hại của COVID-19.

1. Đại dịch có nguồn gốc từ Tây Ban Nha

Không ai tin cái gọi là “Cúm Tây Ban Nha” lại xuất phát từ Tây Ban Nha.

Đại dịch cúm 1918 có tên như trên bởi vì trong Thế chiến thứ I, mọi thứ đều đang rất xáo động. Các nước lớn tham gia vào cuộc chiến đều muốn tránh thông tin có thể khuyến khích cho kẻ thù của họ, do đó các báo cáo về bệnh Cúm đã bị loại bỏ ở Đức, Áo, Pháp, Anh, và Hoa Kỳ. Trái lại, Tây Ban Nha là nước trung lập, do đó không cần thiết phải che đậy thông tin bệnh Cúm dưới lớp vỏ bọc. Do đó, đã tạo ra một ấn tượng sai lầm rằng Tây Ban Nha chính là nước phát sinh ra bệnh.

Trên thực tế, nguồn gốc địa lý của đại dịch Cúm 1918 vẫn còn được tranh cãi cho tới tận ngày nay, sau hơn 100 năm, các giả thuyết có thể dịch bắt nguồn từ Đông Á, Châu Âu, thậm chí Kansas.

Với đại dịch COVID-19 thì dịch giả lại tin rằng việc lấy tên từ nơi xuất phát của dịch giúp ích nhiều cho việc điều tra dịch tễ, phòng bệnh và ngăn chặn các đợt dịch tiếp theo. Và nơi xuất phát của dịch này cho tới giờ được thừa nhận rộng rãi là từ TQ.

2. Đại dịch là tác phẩm của một “siêu virus”

Dịch cúm 1918 lây lan nhanh chóng, giết chết 25 triệu người chỉ trong vòng 6 tháng đầu tiên. Điều này dẫn tới một số mối lo lắng về khả năng tuyệt chủng của loài người, và một thời gian dài giả định rằng chủng Cúm này đặc biệt nguy hiểm chết người.

Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho rằng bản thân virus, mặc dù có nguy hiểm hơn chủng thông thường, không khác biệt rõ rệt với các chủng Cúm gây ra các dịch bệnh những năm trước đó.

Một tỷ lệ lớn tử vong đóng góp bởi các khu vực đông đúc như trong trại quân đội và môi trường thành thị, cũng như những khu vực có tình trạng dinh dưỡng, vệ sinh nghèo nàn, nơi đang phải đối mặt tới tình trạng chiến tranh. Cho tới nay, nhiều nhà khoa học tin rằng, nhiều cái chết lúc đó là do sự phát triển của vi khuẩn viêm phổi trong một cơ thể bệnh nhân suy yếu bởi Cúm.

Nhiều nghiên cứu tới thời điểm này đều cho thấy chủng cúm H1N1 là chủng Cúm đã gây ra đại dịch Cúm Tây Ban Nha 1918-1919. Tuy nhiên, mã gen chính xác của chủng Cúm này chưa được xác định 100% mặc dù phần dưới đây có một số bằng chứng khá thuyết phục.

3. Đợt sóng thứ 3 của đại dịch là chết chóc nhất

Trên thực tế, đợt sóng đầu tiên của dịch vào nửa đầu năm 1918 có tỷ lệ tử vong khá thấp.

Đợt sóng thứ 2, từ tháng 10 tới tới 12 năm 1918, tỷ lệ tử vong cao nhất. Làn sóng thứ 3 vào năm 1919 chết chóc nhiều hơn đợt thứ nhất nhưng ít hơn đợt thứ 2.

Các nhà khoa học hiện nay tin rằng số người tử vong ở đợt sóng thứ hai là bởi những điều kiện thuận lợi cho chủng virus nguy hiểm hơn lây lan. Những người với các triệu chứng nhẹ thì ở nhà, tuy nhiên những người bị nặng hơn thường hay tập trung ở bệnh viện và các khu trại, do đó làm gia tăng khả năng lây nhiễm chủng virus nguy hiểm hơn.

4. Virus đã gây ra cái chết cho những người bị nhiễm bệnh

Trên thực tế, phần lớn các ca nhiễm bệnh cúm 1918 đều sống sót. Tỷ lệ tử vong trên toàn quốc trong thời gian dịch bệnh không quá 20%.

Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong khác nhau ở các nhóm đối tượng. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong đặc biệt cao ở những người Mỹ bản địa, có thể do họ vốn ít phải phơi nhiễm với virus Cúm trước đó. Trong một số trường hợp, cả cộng đồng bản địa đã bị xóa sổ.

Tất nhiên, kể cả tỷ lệ tử vong 20% cũng đã là quá cao so với chủng Cúm thông thường, loại mà chỉ gây tử vong không quá 1% số người nhiễm.

May mắn là hiện nay loài người đã phát triển được vắc xin, kháng sinh, các biện pháp điều trị tích cực… nên có lẽ thảm họa COVID-19 chưa thể gây tổn hại sinh mạng quá lớn trên toàn cầu.

5. Các liệu pháp điều trị thời gian đó ít tác động tới bệnh dịch

Không có thuốc đặc trị virus vào thời gian đại dịch cúm năm 1918. Bây giờ cũng vẫn vậy, hầu hết các biện pháp chăm sóc y tế đối với bệnh cúm tập trung hỗ trợ bệnh nhân, hơn là chữa cho bệnh nhân khỏi bệnh.

Một giả thuyết cho rằng nhiều ca bệnh Cúm tử vong lúc đó có thể thực tế bị ngộ độc Aspirin mà chết. Các quan chức y tế lúc đó đã khuyến cáo sử dụng liều cao Aspirin tới 30gram mỗi ngày. Ngày này, khoảng 4 gram/ngày đã được coi là liều an toàn tối đa rồi. Liều cao Aspirin có thể dẫn tới nhiều triệu chứng của đại dịch, trong đó có xuất huyết.

Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong dường như cao bằng nhau ở một số nơi trên thế giới nơi mà Aspirin không có sẵn, do đó tranh cãi vẫn tiếp tục diễn ra.

Hiện nay, một số phương pháp không được xác thực cũng đã được khuyến cáo ở một số vùng nông thôn, hoặc những quốc gia như Ấn Độ gây thảm họa khôn lường.

deo_khau_trang_chong_cum_tay_ban_nha

6. Đại dịch đã chiếm lĩnh thông tin thời gian đó

Các cơ quan y tế công, các cơ quan hành pháp, chính trị gia có lý do để nói giảm nhẹ bớt mức độ nguy hiểm của dịch cúm năm 1918, điều này dẫn tới hạn chế thông tin truyền thông. Bên cạnh nỗi sợ việc tiết lộ đầy đủ thông tin có thể khuyến khích kẻ thù trong thời kỳ chiến tranh, họ cũng muốn giữ gìn trật tự xã hội và tránh hoảng loạn.

Tuy nhiên, các nhà chức trách đã phản hồi. Vào thời gian đỉnh điểm của dịch bệnh lệnh cách ly đã được ban hành ở nhiều thành phố. Một vài dịch vụ thiết yếu cũng đã bị dừng lại, bao gồm cả cảnh sát và cứu hỏa.

Vì những lý do chính trị nhạy cảm, đôi khi thông tin dịch bị giấu nhẹm và gây ảnh hưởng nặng nề tới sinh mạng của người dân. Hi vọng, điều này sẽ không xảy ra với thế giới văn minh hiện nay.

7. Đại dịch đã thay đổi Thế chiến thứ I

Có vẻ không đúng nếu cho rằng dịch cúm đã thay đổi kết quả của Thế chiến thứ I, bởi vì các quốc gia tham chiến ở các hai phe đều bị ảnh hưởng tương đương nhau.

Tuy nhiên, ít ai nghi ngờ về việc chính cuộc chiến này đã ảnh hưởng mạnh tới cục diện của đại dịch. Việc tập trung hàng triệu quân lính đã tạo ra môi trường lý tưởng để phát triển các chủng virus nguy hiểm và lây lan ra quy mô toàn cầu.

8. Tiêm chủng diện rộng đã chấm dứt đại dịch

Tiêm chủng chống lại cúm chưa được thực hiện vào năm 1918, do đó việc tiêm chủng đương nhiên chẳng đóng vai trò gì trong việc kết thúc đại dịch Cúm 1918 cả.

Việc đã tiếp xúc với các chủng cúm trước đây có thể đã giúp cơ thể con người có thể tự bảo vệ được phần nào. Ví dụ như những binh lính đã phục vụ trong quân ngũ nhiều năm thường có tỷ lệ tử vong thấp hơn so với những lính mới.

Bên cạnh đó, virus đột biến nhanh chóng có vẻ như tiến hóa theo thời gian để trở thành chủng ít nguy hiểm hơn. Điều này đã được dự đoán trong các mô hình chọn lọc tự nhiên. Bởi vì các chủng gây chết vật chủ nhanh chóng, thường sẽ khó có thể lây lan hơn so với các biến chủng ít gây tử vong.

Hiện tại chúng ta có công cụ vắc xin, dù chỉ cần thực tế đạt hiệu lực 40-60% giống như các loại vắc xin Cúm thường thì đã giảm thiểu được nguy cơ tử vong của hàng trăm nghìn thậm chí hàng triệu người mỗi năm bởi COVID-10.

trai_tap_trung_benh_nham_cum
Tập trung bệnh nhân Cúm vào một điểm cách ly tập trung là 1 trong những nguyên nhân khiến dịch lây lan nhanh

9. Gen của virus không bao giờ được giải mã

Vào năm 2005, các nhà nghiên cứu công bố rằng họ đã xác định thành công chuỗi gen của virus cúm 1918. Virus đã được khám phá trong thi hài của một nạn nhân cúm năm 1918 được chôn vùi trong lớp băng vĩnh cửu ở Alaska, cũng như các mẫu từ những quân nhân Hoa Kỳ đã ngã xuống thời kỳ đó.

Hai năm sau, một số khỉ được cho nhiễm với virus này có biểu hiện tương tự như những triệu chứng ghi chép lại trong đại dịch 1918. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khỉ đã bị chết khi hệ thống miễn dịch phản ứng quá mạnh với virus, tình trạng gọi là “bão Cytokine”. Các nhà khoa học ngày nay tin rằng tình trạng phản ứng quá mức của hệ thống miễn dịch chính là nguyên nhân quan trọng gây ra những cái chết ở người lớn trẻ tuổi mắc Cúm vào năm 1918.

10. Thế giới ngày nay cũng không được chuẩn bị tốt hơn so với 1918

Các đại dịch nguy hiểm có xu hướng xảy ra sau một vài thập kỷ và đại dịch mới nhất chúng ta đang trải qua.

Ngày nay, các nhà khoa học đã biết nhiều hơn về cách cô lập và xử lý số lượng lớn bệnh nhân ốm, hấp hối, và thầy thuốc có thể kê đơn kháng sinh, điều mà năm 1918 không có, để chống lại nhiễm trùng thứ phát. Các biện pháp chung như giãn cách xã hội, rửa tay, y học hiện đại có thể tạo ra vắc xin và các thuốc kháng virus.

Trong tương lai có thể dự đoán, các đại dịch virus sẽ vẫn là một mối lo của cuộc sống con người. Với tư cách là một xã hội, chúng ta chỉ có thể hi vọng rằng chúng ta học được các bài học từ những đại dịch lớn để có thể đối mặt tốt hơn với đại dịch COVID-19.

Theo: theconversasion.com, tác giả Richard Gunderman – Chancellor’s Professor of Medicine, Liberal Arts, and Philanthropy, Indiana University.

Bài viết Bài học từ 10 quan niệm sai lầm trong Đại dịch cúm 1918, đại dịch lớn nhất lịch sử loài người đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/bai-hoc-tu-10-quan-niem-sai-lam-trong-dai-dich-cum-1918-dai-dich-lon-nhat-lich-su-loai-nguoi-178/feed/ 0 178
Mix and Match vắc xin COVID-19 có hiệu quả và an toàn không? https://nghianb.org/mix-and-match-vac-xin-covid-19-co-hieu-qua-va-an-toan-khong-171/ https://nghianb.org/mix-and-match-vac-xin-covid-19-co-hieu-qua-va-an-toan-khong-171/#respond Sat, 12 Jun 2021 03:56:35 +0000 https://nghianb.org/?p=171 Mix and Match hay hiểu đơn giản kết hợp vắc xin COVID-19 được đề xuất ở một số quốc gia, tuy nhiên độ an toàn như thế nào và hệ miễn dịch của chúng ta phản ứng ra sao với sự kết hợp này? Sử dụng kết hợp vắc xin Covid-19 có an toàn không?Xem thêm

Bài viết Mix and Match vắc xin COVID-19 có hiệu quả và an toàn không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Mix and Match hay hiểu đơn giản kết hợp vắc xin COVID-19 được đề xuất ở một số quốc gia, tuy nhiên độ an toàn như thế nào và hệ miễn dịch của chúng ta phản ứng ra sao với sự kết hợp này?

ket_hop_vac_xin_covid_19

Sử dụng kết hợp vắc xin Covid-19 có an toàn không?

Hiện nay vắc xin COVID-19 đang được triển khai, một vài quốc gia bắt đầu nghĩ tới việc kết hợp các chế phẩm vắc xin, tức là mũi đầu tiên tiêm một loại vắc xin, mũi thứ hai lại tiêm loại vắc xin khác vào một vài tuần sau đó.

Kết hợp vắc xin có thể là một ý tưởng tốt vì nhiều lý do. Tình trạng nghẽn tắc nguồn cung dẫn tới thiếu hụt vắc xin ở nhiều quốc gia, do đó có thể kết hợp các loại vắc xin từ nhiều nhà cung cấp khác nhau sẽ giúp làm giảm áp lực của việc cung cấp vắc xin. Hơn nữa, có một số bằng chứng ban đầu cho thấy kết hợp vắc xin có tiềm năng giúp thúc đẩy miễn dịch mạn hơn so với việc sử dụng 1 mũi tiêm của cùng 1 loại vắc xin. Một số quốc gia dự kiến sẽ phối hợp vắc xin vì thiếu hụt nguồn cung hoặc lo ngại các tác dụng phụ của một vài loại vắc xin.

AstraZeneca đang thử nghiệm sử dụng liều vắc xin đầu tiên của AstraZeneca và liều thứ hai là Ad26 Sputnik

Sử dụng kết hợp vắc xin nghe có vẻ không bình thường, tuy nhiên với các nhà miễn dịch học thì nó không phải thứ gì quá mới mẻ. Các nhà nghiên cứu HIV có một thười gian dài khám phá ra điều này khi nghiên cứu về vắc xin HIV. Bởi vì, để bảo vệ cơ thể trước virus HIV đòi hỏi phản ứng miễn dịch phức tạp, mà điều này gần như không thể đạt được chỉ với 1 loại vắc xin. Mặc dù chúng ta vẫn chưa có loại vắc xin HIV/AIDS hiệu quả nào, nhưng vào 2012 loại hiệu quả nhất được phát triển cho tới bây giờ là kết hợp của nhiều loại vắc xin khác nhau.

Vắc xin Ebola được phát triển bởi J&J là một ví dụ về chế phẩm vắc xin kết hợp hiệu quả được sử dụng hiện nay. Nó được sử dụng để cung cấp miễn dịch dài hạn. Liều vắc xin đầu tiên sử dụng vector adenovirus giống như vắc xin AstraZeneca, và liều vắc xin thứ hai là một phiên bản biến đổi của virus thủy đậu được gọi là Vắc xin virus Ankara biến đổi (MVA).

Kết hợp vắc xin để tăng cường hệ thống miễn dịch

Đầu năm 2021, nhà sản xuất vắc xin AstraZeneca để ý sự kết hợp giữa mũi tiêm đầu tiên vắc AstraZeneca với mũi tiêm thứ hai là vắc xin Sputnik V của Nga. Cả hai loại vắc xin đều sử dụng adenovirus (một tác nhân gây cảm lạnh thông thường) làm hệ vận chuyển kháng thể SARS-CoV-2 vào cơ thể và các tế bào; tuy nhiên với cách làm này thì hệ miễn dịch của chúng ta không chỉ có khả năng chống COVID-19 mà còn có khả năng đáp ứng với adenovirus loại được sử dụng làm phương tiện. Điều này có nghĩa là sau mũi tiêm thứ 2, cơ thể chúng ta có thể có kháng thể chống lại thành phần adenovirus làm trung hòa vắc xin, khiến cho mũi tiêm thứ hai kém hiệu quả đi.

Vắc xin Sputnik V dường như tránh được điều này nhờ sử dụng hai loại adenovirus khác nhau trong mỗi liều là Ad5 và Ad26. AstraZeneca hiện nay đang thử nghiệm sử dụng liều vắc xin đầu tiên của hãng kết hợp với liều vắc xin thứ hai Ad26 Sputnik của Nga xem có hiệu quả hay không.

Còn việc sử dụng hai loại vắc xin hoàn toàn khác nhau như vắc xin dùng vector adenovirus như của AstraZeneca với vắc xin mRNA của Pfizer-BioNTech ở liều thứ hai thì sẽ ra sao? Tháng trước, nghiên cứu CombivacS ở Tây Ban Nha thấy rằng những người sử dụng liều vắc xin đầu tiên của AstraZeneca và sau đó dùng liều thứ 2 là vắc xin Pfizer dường như có đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ hơn so với việc dùng hai liều vắc xin AstraZeneca.

Bên cạnh các tác động tích cực tiềm năng khác tới hệ thống miễn dịch, điểm cộng khác của việc kết hợp 2 vắc xin kể trên có thể là giúp tránh nguy cơ vắc xin bị giảm hiệu lực khi đối mặt với biến thể virus mới. Khi virus đột biến, phần trên virus mà vắc xin tác động có thể thay đổi, điều đó làm vắc xin kém hiệu quả đi. Tuy nhiê nếu hai loại vắc xin tác động tới các phần khác nhau trên virus thì hệ thống miễn dịch của chúng ta có thêm vũ khí để chống lại virus khi nó thay đổi.

Lưu ý về tác dụng phụ khi kết hợp vắc xin Covid-19

Mặc dù đã có tiền lệ về sử dụng kết hợp nhiều loại vắc xin tiêm cho người và có những bằng chứng khoa học về việc đó, nhưng mRNA vắc xin mới chỉ lần đầu tiên được sử dụng cho COVID-19. Điều này có nghĩa là chưa có ghi nhận theo dõi nào về vấn đề sẽ xảy ra khi sử dụng kết hợp vắc xin mRNA với vắc xin adenovirus. Đây là lý do tại sao các nhà nghiên cứu kêu gọi thêm các nghiên cứu thận trọng hơn về việc kết hợp vắc xin, đặc biệt chú ý tới không chỉ khả năng tăng cường miễn dịch mà còn tới các tác động phụ tiềm tàng nữa.

Đầu tháng này, Thử nghiệm Nhóm Vắc xin Oxford Com-Cov đã phân tích những sự kết hợp khác nhau để thử đáp ứng miễn dịch. Họ thấy rằng những người đã tiêm vắc xin AstraZeneca mũi đầu tiên sau đó tiêm vắc xin Pfizer, hoặc ngược lại, đều có thêm “tính phản ứng”, ví dụ như tác dụng phụ gây sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau cơ và đau khớp so với những người tiêm hai mũi cùng 1 loại.

Các nhà khoa học cũng lưu ý rằng không có bất kỳ ai trong nhóm đã sử dụng kết hợp 2 loại vắc xin đó cần nhập viện vì các triệu chứng khá ngắn, tuy nhiên bổ sung rằng dữ liệu này là từ những người trên 50 tuổi, các triệu chứng khi kết hợp vắc xin có thể nặng hơn với người trẻ hơn. Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục phân tích về sự kết hợp giữa vắc xin AstraZeneca, Moderna hoặc Novavax.

Các quốc gia cân nhắc chiến lược kết hợp vắc xin Covid-19

Số các quốc gia cân nhắc chiến lược sử dụng kết hợp vắc xin COVID-19 (mix and match) ngày càng tăng lên trong bối cảnh nguồn cung vắc xin không liên tục và các lo ngại về vấn đề an toàn có thể ảnh hưởng tới chiến dịch tiêm chủng.

vac_xin_covid_19_2021

Một số nghiên cứu để thử nghiệm hiệu quả của việc kết hợp vắc xin COVID-19 vẫn đang được tiến hành.

Sau đây là một số quốc gia đang cân nhắc hoặc đã quyết định sẽ áp dụng phương án “kết hợp sử dụng” (mix and match) vắc xin COVID-19.

BAHRAIN

Bahrain đã phát biểu vào ngày 4 tháng 6 năm nay rằng các ứng viên đủ điều kiện có thể tiêm mũi bổ sung là vắc xin Pfizer hoặc Sinopharm, bất kể mũi tiêm đầu tiên là thuộc hãng gì.

CANADA

Ủy ban tư vấn tiêm chủng Quốc Gia Canada đã phát biểu vào ngày 1/6 rằng những người đã tiêm mũi vắc xin đầu tiên của AstraZeneca có thể lựa chọn tiêm mũi thứ hai loại loại vắc xin khác. Thông báo cũng bổ sung rằng vắc xin của Pfizer và Moderna có thể được sử dụng thay thế cho nhau.

Trung Quốc

Các nhà ngheien cứu Trung Quốc tháng 4 đã thử nghiệm kết hợp các loại vắc xin sản xuất bởi CanSino Biologics, và một đơn vị thuộc Chongqing Zhifei Biological Products, theo như dữ liệu đăng ký thử nghiệm lâm sàng cho biết.

Phần Lan

Viện Y tế và Phúc lợi Phần Lan phát biểu vào ngày 14 tháng 4 rằng những người đã tiêm mũi đầu tiên vắc xin AstraZeneca mà dưới 65 tuổi có thể tiêm một mũi thứ hai của hãng khác.

Pháp

Tháng 4 vừa rồi, Cơ quan tư vấn sức khỏe hàng đầu của Pháp khuyến cáo rằng những người dưới 55 tuổi đã tiêm vắc xin AstraZeneca cho mũi đầu và nên sử dụng mũi tiêm thứ hai với một loại vắc xin mRNA, mặc dù việc kết hợp sử dụng vắc xin vẫn chưa được chứng minh trên thử nghiệm.

Na Uy

Na Uy cho biết vào ngày 23 tháng 4 sẽ cho những người đã tiêm mũi đầu tiên là vắc-xin AstraZeneca được tiêm vắc-xin mRNA cho liều thứ hai.

Nga

Nga có thể bắt đầu thử nghiệm kết hợp vắc-xin COVID-19 Sputnik V trong nước và liều thứ hai là vắc xin Trung Quốc tại các nước Ả Rập, hãng thông tấn Interfax dẫn lời Quỹ tài sản có chủ quyền RDIF của Nga cho biết hôm 4/6.

RDIF cũng cho rằng không có tác dụng bất lợi nào được tìm thấy trong các thử nghiệm lâm sàng kết hợp vắc xin COVID-19 bằng cách sử dụng mũi tiêm AstraZeneca và Sputnik V, Interfax đưa tin.

Hàn Quốc

Hàn Quốc vào ngày 20 tháng 5 cho biết sẽ tiến hành một thử nghiệm sử dụng kết hợp các liều vắc xin của AstraZeneca với các loại vắc xin phát triển bởi Pfizer và các nhà sản xuất thuốc khác.

Tây Ban Nha

Bộ trưởng Bộ Y tế Carolina Darias ngày 19/5 cho biết Tây Ban Nha sẽ cho phép những người dưới 60 tuổi được tiêm mũi AstraZeneca đầu tiên, được tiêm mũi vắc xin thứ hai là của AstraZeneca hoặc Pfizer, sau khi có kết quả sơ bộ của một nghiên cứu do Viện Y tế Carlos III do nhà nước hỗ trợ.

Thụy Điển

Cơ quan y tế Thụy Điển ngày 20/4 cho biết những người dưới 65 tuổi đã tiêm một mũi vắc-xin AstraZeneca sẽ được tiêm một loại vắc-xin khác cho liều thứ hai.

Các tiểu vương quốc Ả Rập

Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Bahrain đã chuẩn bị sẵn vắc-xin Pfizer / BioNTech PFE.N, BNTX.O đủ cho cả các mũi tiêm nhắc lại cho những người được chủng ngừa ban đầu bằng vắc-xin do Tập đoàn Dược phẩm Quốc gia Trung Quốc (Sinopharm) phát triển.

Một đại diện của Mubadala Health, một phần của quỹ nhà nước, cho biết loại vắc-xin khác có thể được cung cấp như một mũi tiêm nhắc lại nhưng quyết định này là do người được tiêm lựa chọn và các chuyên gia y tế không đưa ra khuyến nghị.

Vương quốc Anh

Novavax (NVAX.O) cho biết vào ngày 21 tháng 5 họ sẽ tham gia vào một cuộc thử nghiệm sử dụng kết hợp vắc xin để kiểm tra hiệu quả việc sử dụng liều vắc xin bổ sung từ nhà sản xuất khác ở mũi tiêm thứ hai. Thử nghiệm sẽ bắt đầu vào tháng 6 tại Vương quốc Anh.

Những phát hiện đầu tiên của một nghiên cứu do Đại học Oxford dẫn đầu được công bố vào ngày 12 tháng 5 chỉ ra rằng những người được tiêm vắc-xin Pfizer sau đó là một liều AstraZeneca, hoặc ngược lại, có nhiều báo cáo về triệu chứng sau tiêm vắc xin từ nhẹ tới trung bình hơn so với việc tiêm 2 mũi vắc xin cùng loại.

Hoa Kỳ

Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) cho biết vào ngày 1 tháng 6 rằng họ đã bắt đầu thử nghiệm lâm sàng trên những người trưởng thành được tiêm chủng đầy đủ để đánh giá tính an toàn và khả năng sinh miễn dịch của một mũi tiêm nhắc lại một loại vắc xin khác.

Tham khảo:

https://www.gavi.org/vaccineswork/it-safe-mix-and-match-covid-19-vaccines

https://www.reuters.com/world/middle-east/countries-weigh-mix-match-covid-19-vaccines-2021-05-24/

Bài viết Mix and Match vắc xin COVID-19 có hiệu quả và an toàn không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/mix-and-match-vac-xin-covid-19-co-hieu-qua-va-an-toan-khong-171/feed/ 0 171
Tác dụng phụ của vắc xin COVID-19 mRNA – phát hiện ngạc nhiên từ Israel https://nghianb.org/tac-dung-phu-cua-vac-xin-covid-19-mrna-phat-hien-ngac-nhien-tu-israel-168/ https://nghianb.org/tac-dung-phu-cua-vac-xin-covid-19-mrna-phat-hien-ngac-nhien-tu-israel-168/#respond Thu, 10 Jun 2021 05:48:11 +0000 https://nghianb.org/?p=168 Phản ứng tái kích hoạt Herpes zoster – hay còn gọi là bệnh Zona – sau khi được tiêm vắc xin COVID-19 ở 6 bệnh nhân bị mắc các bệnh tự miễn hoặc bệnh lý viêm có thể là tác dụng bất lợi liên quan tới vắc xin Covid-19 của Pfizer/BioNTech mRNA, một báo cáoXem thêm

Bài viết Tác dụng phụ của vắc xin COVID-19 mRNA – phát hiện ngạc nhiên từ Israel đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Phản ứng tái kích hoạt Herpes zoster – hay còn gọi là bệnh Zona – sau khi được tiêm vắc xin COVID-19 ở 6 bệnh nhân bị mắc các bệnh tự miễn hoặc bệnh lý viêm có thể là tác dụng bất lợi liên quan tới vắc xin Covid-19 của Pfizer/BioNTech mRNA, một báo cáo cho biết.

Tại hai trung tâm ở Israel, có 6 trường hợp bị Herpes zoster phát hiện sớm sau khi được cho tiêm vắc xin Covid-19 của Pfizer ở những bệnh nhân có các bệnh lý sẵn có như viêm khớp dạng thấp từ tháng 12 năm 2020, theo Victoria Furer, MD, Đại học Tel Aviv, và các cộng sự.

Tới nay, chúng ta vẫn còn biết rất ít về mức độ an toàn cũng như hiệu quả của các loại vắc xin Covid-19 trong số những bệnh nhân bệnh thấp khớp, bởi vì những cá thể bị ức chế miễn dịch không được đưa vào trong các thử nghiệm lâm sàng ban đầu.

Theo đó, một nghiên cứu quan sát được tiến hành tại Trung tâm Y khoa Tel Aviv và Trung tâm Y khoa Carmel ở Haifa, theo dõi những tá dụng bất lợi sau khi tiêm vắc xin ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp, thoái hóa đốt sống, bệnh mô liên kết, viêm mạch, viêm cơ. Phân tích tạm thời này bao gồm 491 bệnh nhân và 99 chứng, các sự kiện được báo cáo trong suốt thời gian theo dõi 6 tuần sau khi tiêm vắc xin. Tỷ lệ mắc ở các bệnh nhân là 1.2% cao hơn so với nhóm chứng, Furer và các cộng sự báo cáo trong tạp chí Thấp khớp học.

“Chúng tôi không thấy có các ca nào bổ sung cho tới thời điểm này,” Furer đã phát biểu với MedPage Today. Tuy nhiên, “các hoạt động giám sát tiếp theo đối với tác dụng bất lợi tiềm tàng sau khi tiêm vắc xin Covid-19 ở bệnh nhân viêm khớp là rất cần thiết,” bà bổ sung.

Xem thêm nghiên cứu đầy đủ tại đây: Herpes zoster following BNT162b2 mRNA Covid-19 vaccination in patients with autoimmune inflammatory rheumatic diseases: a case series

vacxin_Covid_19_gay_zona

Các ca bệnh được theo dõi

Ca thứ nhất là một phụ nữ 44 tuổi mắc hội chứng Sjogren, đang được điều trị với Hydroxychloroquine. Cô có tiền sử mắc Thủy đậu và chưa được tiêm chủng vắc xin thủy đậu. 3 ngày sau khi tiêm mũi vắc xin đầu tiên, cô bị phát ban trên da kèm theo ngứa, đau thắt lưng và đau đầu. Các triệu chứng đều cùng hết sau 3 tuần mà không cần điều trị gì, cô được tiêm mũi vắc xin thứ 2 sau mũi thứ nhất 4 tuần.

Trường hợp thứ hai là một phụ nữ 56 tuổi với tiền sử lâu dài mắc viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính được điều trị với các thuốc sinh học khác nhau và bệnh tình giảm với thuốc Tofacitinib (Xeljanz) từ năm 2014. Cô có lịch sử bị thủy đậu và chưa được chủng ngừa.

Sau mũi tiêm vắc xin thứ nhất, cô báo cáo tình trạng khó chịu và đau đầu, sau đó 4 ngày cô thấy rất đau ở mắt trái và phần trán, cùng với đó là nổi các nốt phân bổ quanh mắt dọc dây thần kinh sọ não số 5 – herpes zoster ophthalmicus (HZO). Khám đáy mắt phát hiện thấy bệnh nhân bị viêm kết mạc xung huyết gây viêm giác mạc. Bệnh nhân được sử dụng 2 tuần thuốc acyclovir và giảm đau, các triệu chứng giảm dần và rõ rệt sau 6 tuần. Trong 2 tuần, bệnh nhân ngưng thuốc Tofacitinib nhưng không bị phát bệnh viêm khớp. Bệnh nhân từ chối tiêm mũi vắc xin thứ 2.

Trường hợp thứ 3 là một phụ nữ 59 tuổi với viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính không đáp ứng với liệu pháp điều trị sinh học và baricitinib (Olumiant), nhưng 6 tháng trước đó cô bắt đầu được điều trị với upadacitinib (Rinvoq) cùng prednisone 5mg/ngày và đáp ứng một phần với điều trị. Bệnh nhân có tiền sử bị thủy đậu và được tiêm vắc xin sống giảm độc lực vào năm 2019.

Hai ngày sau khi tiêm mũi vắc xin Covid thứ 2, bệnh nhân báo cáo đau và có nổi mụn nước ở vùng bụng dưới, bẹn, mông, đùi và được cho thuốc valacyclovir. Thuốc kháng virus được uống trong 3 ngày nhưng sau đó ngưng dùng vì tác dụng phụ các mụn nước trên da tự lành trong 6 tuần.

Thuốc upadacitinib không được sử dụng trong thời gian bị Zona và bệnh nhân trải qua tình trạng tái phát viêm khớp dạng thấp nghiêm trọng, đau đa khớp, sau đó cô phải sử dụng thuốc điều trị viêm khớp là etanercept (Enbrel)

Trường hợp thứ 4 là một phụ nữ 36 tuổi với tiền sử bị viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính kèm theo bệnh phổi kẽ. 2 năm trước bệnh nhân được điều trị với rituximab (Rituxan), mycophenolate mofetil (Cellcept), và prednisone liều 7mg/ngày. Bệnh nhân có tiền sử thủy đậu và chưa được tiêm vắc xin tái tổ hợp.

10 ngày sau khi tiêm mũi vắc xin Covid-19 đầu tiên, bệnh nhân báo cáo đau và có mụn nước ở bụng và lưng dọc vùng da T10, và được cho sử dụng acyclovir trong 7 ngày. Các mụn nước giảm hết trong vòng 6 tuần, và bệnh nhân được tiêm mũi thứ 2 sau 4 tuần kể từ khi tiêm mũi thứ nhất. Bệnh nhân không thấy tác dụng bất lợi của vắc xin nữa và không bị phát bệnh viêm khớp.

Trường hợp thứ 5 là một phụ nữ 38 tuổi bị bệnh mô liên kết không biệt hóa và hội chứng kháng phospholipid đã được điều trị với thuốc aspirin và hydroxychloroquin. Bệnh nhân đã từng bị Thủy đậu và không tiêm vắc xin tái tổ hợp.

Hai tuần sau khi tiêm mũi vắc xin thứ nhất, bệnh nhân nổi mụn nước ngứa ở ngực phải và được cho sử dụng thuốc Acyclovir 1 tuần. Triệu chứng Zona được giải quyết trong 3 tuần và bệnh nhân được tiêm mũi vắc xin Covid-19 thứ 2 theo lịch trình mà không bị tác dụng phụ hay phát bệnh trở lại.

Trường hợp thứ 6 là một phụ nữ 61 tuổi với tiền sử viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính lâu năm, đã được điều trị với thuốc Tocilizumab (Acetemra) và prednisone 5mg/ngày tại thời điểm được tiêm mũi vắc xin Covid-19 đầu tiên. Hai tuần sau đó, mụn nước xuất hiện ở vùng da T6, và bệnh nhân được cho sử dụng valacyclovir trong 1 tuần, các triệu chứng Zona hết trong 10 ngày.

Tuy nhiên, bệnh nhân đã báo cáo tình trạng viêm khớp tăng nhẹ và được tăng liều prednisone lên 7.5mg/ngày. Liều vắc xin thứ hai được tiêm không theo đúng lịch trình.

Mô hình và cơ chế gây tác dụng bất lợi của vắc xin Covid-19 mRNA

Furer và các cộng sự đã lưu ý rằng chưa có báo cáo về Herpes zoster trong các thử nghiệm lâm sàng của vắc xin COVID-19 mRNA, và do đó, với hiểu biết của nhóm nghiên cứu thì đây là những ca đầu tiên trong số các bệnh nhân với nền bệnh tự miễn, hoặc bệnh lý viêm.

Dạng bệnh tương đối nhẹ, không có bệnh nhân nào bị lan tỏa hoặc đau dây thần kinh sau khi mắc Herpes. Điều đáng lưu ý, các nhà nghiên cứu chỉ ra có một trường hợp bệnh nhân đã tiêm vắc xin tái tổ hợp 2 năm trước khi được chủng ngừa COVID-19.

“Miễn dịch trung gian tế bào đóng vai trò quan trọng trong phòng ngừa bệnh Zona tái phát. Tình trạng giảm miễn dịch qua trung gian tế bào theo tuổi tác hoặc theo thể bệnh có mối liên hệ với việc giảm tế bào T đặc hiệu với virus Varicella zoster, làm gián đoạn giám sát miễn dịch và tăng nguy cơ tái phát Zona, cùng với tuổi tác là tác nhân nguy cơ chính chiếm tới 90% trường hợp Zona,” các nhà nghiên cứu nhận xét. Tuy nhiên, các ca bệnh này nằm trong độ tuổi trung niên, trung bình 49 tuổi và có bệnh lý viêm khớp nhẹ, kéo dài.

Các tác nhân khác có thể liên quan. Ví dụ, nguy cơ Herpes zoster ở nhóm bệnh nhân thấp khớp cao hơn so với người khỏe mạnh, với tỷ lệ mắc gộp là 2.9% (95% CI 2.4-3.3). Thêm vào đó, nguy cơ trong nhóm bệnh nhân viêm khớp dạng thấp còn cao hơn gấp khoảng 2 lần so với nhóm dân cư phổ thông.

Các nguy cơ khác là mức độ hoạt động của bệnh và liều cao của prednisone được bệnh nhân sử dụng. Hơn nữa, nhóm bệnh nhân được điều trị với thuốc ức chế JAK như tofacitinib cũng có nguy cơ mắc herpes cao gấp 2 lần, trong số 6 trường hợp trên có 2 trường hợp dùng thuốc này.

COVID-19 bản thân nó cũng có mối liên hệ với các nốt Zona, điều này gợi ý rằng bệnh có thể cản trở sự hoạt hóa và chức năng của CD4+ và CD8+, điều này có thể ảnh hưởng tới khả năng miễn dịch chống lại virus.

“Các cơ chế tiềm năng có thể giải thích mối liên hệ bệnh học giữa vắc xin mRNA-COVID-19  và tái phát Zona là sự kích thích miễn dịch bẩm sinh thông qua các thụ thể giống toll (toll-like receptors),” các nhà nghiên cứu viết.

Họ cũng lưu ý rằng vắc xin có thể kích thích interferons tuýp I và cytokines làm ảnh hưởng tới khả năng biểu hiện kháng nguyên.

Một hạn chế của phân tích này là chẩn đoán Herpes zoster được thực hiện chỉ trong môi trường lâm sàng. Với một số lượng mẫu nhỏ, không thể khẳng định có thể suy đoán với các trường hợp thông thường khác.

Bài viết Tác dụng phụ của vắc xin COVID-19 mRNA – phát hiện ngạc nhiên từ Israel đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/tac-dung-phu-cua-vac-xin-covid-19-mrna-phat-hien-ngac-nhien-tu-israel-168/feed/ 0 168
Dữ liệu đầu tiên về hiệu quả vắc xin trên biến chủng Ấn Độ https://nghianb.org/du-lieu-dau-tien-ve-hieu-qua-vac-xin-tren-bien-chung-an-do-161/ https://nghianb.org/du-lieu-dau-tien-ve-hieu-qua-vac-xin-tren-bien-chung-an-do-161/#respond Wed, 09 Jun 2021 10:17:03 +0000 https://nghianb.org/?p=161 Các nhà nghiên cứu từ Anh thử nghiệm hiệu quả của Vắc xin Pfizer và vắc xin AstraZeneca. Thông tin đăng trên medpagetoday.com giúp chúng ta có những cái nhìn đầu tiên về hiệu quả thực sự của hai loại vắc xin Covid-19 phổ biến hiện nay của Pfizer và AstraZeneca. Cả vắc xin củaXem thêm

Bài viết Dữ liệu đầu tiên về hiệu quả vắc xin trên biến chủng Ấn Độ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Các nhà nghiên cứu từ Anh thử nghiệm hiệu quả của Vắc xin Pfizer và vắc xin AstraZeneca. Thông tin đăng trên medpagetoday.com giúp chúng ta có những cái nhìn đầu tiên về hiệu quả thực sự của hai loại vắc xin Covid-19 phổ biến hiện nay của Pfizer và AstraZeneca.

covid_19_bien_chung_an_do

Cả vắc xin của Pfizer và AstraZeneca đều có hiệu quả trên bệnh lý COVID có triệu chứng của biến chủng B.1.617.2, hay còn gọi là biến chủng Ấn Độ, các nhà nghiên cứu tại nước Anh phát hiện.

Hai mũi tiêm của vắc xin Covid-19 của Pfizer có hiệu quả bảo vệ 87.9% (dao động từ 78.2% – 93.2%) trước biến chủng Ấn Độ, trong khi đó hai liều của vắc xin AstraZeneca có hiệu quả chống biến chủng khoảng 59.8%, theo báo cáo của Jamie Lopez Bernal, Giáo sư Sức khỏe cộng đồng Anh quốc tại Luân Đôn, cùng với cộng sự.

Hiệu quả của vắc xin sau khi tiêm 1 mũi đối với chủng B.1.617.2 (biến chủng Ấn Độ) thì đều khoảng 33% đối với cả 2 loại vắc xin nói trên.

“Đây là nghiên cứu đầu tiên báo cáo về hiệu quả của vắc xin với biến chủng Ấn Độ B.1.617.2,” tác giả viết.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng nghiên cứu xét nghiệm âm tính – chứng, với dữ liệu về tình trạng tiêm chủng từ tới 16 tháng 5 năm 2021 và xét nghiệm PCR từ 26 tháng 10 năm 2020 tới 16 tháng 5 năm 2021. Sau đó, các nhà khoa học sử dụng giải trình tự gen hoặc một thử nghiệm đặc hiệu để xác định biến chủng B.1.617.2 (biến chủng Ấn Độ) và B.1.1.7 (biến chủng Anh).

Các tác động của hai loại vắc xin được định nghĩa bởi các triệu chứng xuất hiện sau 21 ngày kể từ mũi tiêm thứ nhất cho tới mũi tiêm thứ hai được thwujc hiện, và 14 ngày sau khi tiêm mũi thứ hai.

Nhìn chung, 12,675 trường hợp được giải trình tự, 11,621 người mang biến chủng B.1.1.7 và 1,054 người mắc biến chủng B.1.617.2. Các trường hợp mắc biến chủng Ấn Độ có tỷ lệ nữ cao hơn, tỷ lệ cao hơn cũng nằm ở nhóm dân cư Ấn Độ hoặc Anh Ấn hoặc có nguồn gốc châu Á, cũng như những người nước ngoài (nước Anh) và mới mắc.

Hiệu quả kết hợp của hai loại vắc xin là 51.5% với biến chủng B.1.1.7. Tuy nhiên, sau hai liều vắc xin Pfizer, hiệu quả bảo vệ trước biến chủng B.1.1.7 là 93.4% (trung bình từ 90.4% – 95%) so với 66.1% (trung bình từ 54% – 75%) với hai liều vắc xin AstraZeneca.

Hiệu lực bảo vệ giảm của vắc xin AstraZeneca lớn hơn (OR 1.48, 95% Cl 1.18-1.87) so với vắc xin Pfizer (OR 1.17, 95% Cl 0.82-1.67).

“Phát hiện này cho thấy rằng hiệu quả của vắc xin giảm nhẹ,” tác giả viết. “Tuy nhiên, hiệu quả rõ ràng của cả hai loại vắc xin được ghi nhận ở mức độ cao sau khi tiêm đủ 2 mũi.”

Sự giới hạn trong dữ liệu bao gồm việc đây là một nghiên cứu quan sát, vì vậy các yếu tố gây nhiễm không được đo lường có thể xảy ra, như sự khác biệt về dân cư được tiêm từng loại vắc xin. Các nhà khoa học cũng ghi chú về mức độ nhạy cảm thấp hoặc tính đặc hiệu thấp của xét nghiệm PCR có thể khiến việc phân loại dương tính, âm tính nhầm.

Tải bản blueprint nghiên cứu đầy đủ tại đây: Effectiveness of COVID-19 vaccines against the B.1.617.2 variant

Theo: benh.vn

Bài viết Dữ liệu đầu tiên về hiệu quả vắc xin trên biến chủng Ấn Độ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/du-lieu-dau-tien-ve-hieu-qua-vac-xin-tren-bien-chung-an-do-161/feed/ 0 161
Kịch bản thế giới năm 2021 trong bối cảnh dịch COVID-19 https://nghianb.org/kich-ban-the-gioi-nam-2021-trong-boi-canh-dich-covid-19-100/ https://nghianb.org/kich-ban-the-gioi-nam-2021-trong-boi-canh-dich-covid-19-100/#respond Mon, 12 Oct 2020 16:28:47 +0000 https://nghianb.org/?p=100 Sau đây là những ảnh dự đoán của các chuyên gia về những ảnh hưởng trong các tháng, năm tiếp theo của đại dịch Coronavirus. Từ năm 2021 trở đi. Ai nên đọc thông tin này Nhà hoạch định chính sách. Doanh nghiệp. Ngành y tế. Và tất cả những ai quan tâm tới cáchXem thêm

Bài viết Kịch bản thế giới năm 2021 trong bối cảnh dịch COVID-19 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
Sau đây là những ảnh dự đoán của các chuyên gia về những ảnh hưởng trong các tháng, năm tiếp theo của đại dịch Coronavirus. Từ năm 2021 trở đi.

dich-covid-2021

Ai nên đọc thông tin này

  • Nhà hoạch định chính sách.
  • Doanh nghiệp.
  • Ngành y tế.
  • Và tất cả những ai quan tâm tới cách đối phó với những điều có thể xảy đến.

Tính tới tháng 6 năm 2021 (năm sau). Thế giới đã ở trong đại dịch 1,5 năm. Virus Corana tiếp tục lan rộng nhưng chậm hơn, âm ỉ hơn; lệnh đóng cửa gián đoạn là tình trạng bình thường mới. Một loại vắc xin có hiệu lực bảo vệ trong vòng 6 tháng được thông qua, tuy nhiên, nó có thể được phân phát với tốc độ chậm. Có khoảng 250 triệu người trên thế giới mắc Covid-19 và 1,75 triệu người chết.

Những kịch bản như thế này có thể là một tưởng tượng về việc COVID-19 sẽ ra sao. Trên khắp thế giới, các nhà dịch tễ học đang xây dựng các dự báo ngắn hạn và dài hạn để có thể chuẩn bị đối phó làm giảm sự lây lan và mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh do virus SARS-CoV-2 gây ra. Mặc dù các dự báo và khung thời gian của họ có khác nhau, nhưng, cơ bản các nhà hoạch định mô hình đều thống nhất với nhau ở 2 điểm:

  1. Dịch bệnh COVID-19 sẽ tiếp tục tồn tại.
  2. Tương lai dịch bệnh COVID-19 phụ thuộc vào nhiều yếu tố chưa biết, bao gồm việc khả năng con người có thể phát triển miễn dịch chống lại virus hay không, yếu tố mùa vụ có ảnh hưởng tới sự lây lan của virus hay không, và quan trọng nhất là các lựa chọn của những Chính phủ và cá nhân.

“Nhiều khu vực đang đóng cửa và nhiều khu uvwjc không đóng cửa. Chúng ta chưa thực sự biết điều gì có thể xảy đến,” Rosalind Eggo, một nhà chuyên gia xây dựng mô hình bệnh truyền nhiễm tại Trường Y khoa vệ sinh và nhiệt đới Luân Đôn, Vương quốc Anh (LSHTM) cho biết.

“Tương lai sẽ rất phụ thuộc vào mức độ trộn lẫn xã hội và biện pháp phòng tránh mà chúng ta thực hiện,” Joseph Wu, một nhà hoạch định mô hình bệnh tật tại Đại học Hồng Kong nói. Các mô hình và băng chứng gần đây từ các đợt đóng cửa đã gợi ý rằng những thay đổi trong hành vi có thể giúp làm giảm nguy cơ lây lan của COVID-19 nếu hầu hết, không nhất thiết là tất cả, mọi người tuân thủ.

dich-covid-2021-2

Khán giả xem phim tại Hàng Châu, Trung Quốc, theo sau tình trạng bình thường mới về khoảng cách và đeo khẩu trang.

Cuối tháng 7, số ca nhiễm COVID-19 được xác nhận đã vượt con số 15 triệu trên toàn cầu, với khoảng 650,000 ca tử vong. Lệnh đóng cửa đang dần được gỡ bỏ ở nhiều nước trên thế giới, khiến cho nhiều người cho rằng, đại dịch đang dần kết thúc, Yonatan Grad, một nhà Dịch tễ học tại Harvard T.H.Chan Trường sức khỏe cộng đồng ở Boston, Masachusetts. “Nhưng điều đó không đúng. Dịch bệnh sẽ còn ở lại với chúng ta lâu dài”

Nếu miễn dịch với virus hết sau ít hơn 1 năm, ví dụ vậy, tương tự như các loại coronavirus trên người khác trong chu kỳ, điều đó có nghĩa là mỗi năm sẽ có những đợt bùng phát dịch bệnh COVID-19 tới 2025 và có thể sau đó nữa. Trong bài viết này, tạp chí Nature khám phá những điều mà khoa học cho rằng sẽ xảy ra trong những tháng và những năm tiếp theo.

Điều gì xảy ra trong tương lai gần ?

Đại dịch COVID-19 không diễn ra như nhau ở các nơi khác nhau trên thế giới. Những quốc gia như Trung Quốc, New Zealand và Rwanda có tỷ lệ mắc thấp sau khi đóng cửa trong những khoảng thời gian khác nhau và đang gỡ bỏ dần những hạn chế trong khi theo dõi các đợt bùng phát. Ở các nơi khác, như ở Hoa Kỳ và Brazil, các ca mắc tăng nhanh chóng sau khi chính phủ nhanh chóng gỡ bỏ lệnh phong tỏa hoặc chưa bao giờ kích hoạt lệnh đóng cửa trên toàn quốc.

Nhóm thứ hai khiến cho các nhà hoạch định mô hình cảm thấy lo lắng. Ở Nam Phi, nơi đứng thứ 5 thế giới về tổng số mắc COVID-19, một nhóm các nhà hoạch định mô hình ước tính đất nước này có thể đạt đỉnh dịch vào tháng 8 hoặc tháng 9, với khoảng 1 triệu ca mắc mới và tích lũy khoảng 13 triệu ca mắc cho tới tháng 11 năm 2020. Về nguồn lực bệnh viện, “chúng ta đã quá ngưỡng chăm sóc của một số khu vực, và tôi nghĩ rằng kịch bản tốt nhất cho chúng ta không phải một kịch bản tốt”, Juliet Pulliam, giám đốc Trung tâm mô hình và phân tích dịch tễ học Nam Phi tại Đại học Stellenbosch.

Tuy nhiên, có những tin tức tốt lành khi tình trạng phong tỏa dỡ bỏ. Bằng chứng sớm gợi ý rằng những thay đổi trong hành vi cá nhân, ví dụ như rửa tay, đeo khẩu trang, tiếp tục được duy trì ngay cả sau khi tình trạng đóng cửa nghiêm ngặt được gỡ bỏ, giúp ngăn chặn các làn sóng lây nhiễm. Trong một báo cáo tháng 6 năm 2020, một nhóm tại Trung tâm MRC về Phân tích các bệnh truyền nhiễm toàn cầu tại Đại học Hoàng Gia Luân Đôn thấy rằng trong số 53 quốc gia bắt đầu mở cửa, không thấy các đợt bùng phát bệnh dịch lớn như đã dự đoán bởi các dữ liệu trước đó. “Có vẻ như chúng ta đã đánh giá thấp hơn khả năng thay đổi hành vi rửa tay, đeo khẩu trang và giữ khoảng cách xã hội. Không có điều gì giống như đã từng xảy ra trước đây,” Samir Bhatt, một chuyên gia dịch tễ học về bệnh truyền nhiễm, Đại học Hoàng Gia Luân Đông và một đồng tác giả của nghiên cứu.

Các nhà nghiên cứu về điểm nóng của virus đang nghiên cứu chi tiết hơn xem những hành vi này có ích như thế nào. Tại Đại học Anhembi Morumbi ở Sao Paulo, Brazil, Nhà y sinh học tính toán Osmar Pinto Neto và các đồng nghiệp chạy hơn 250,000 mô hình toán học về chiến lược giữ khoảng cách xã hội được mô tả như duy trì liên tục, ngắt quãng hoặc “giảm dần” – với những hạn chế giảm theo từng gia đoạn – bên cạnh những can thiệp hành vi như đeo khẩu trang và rửa tay.

dich-covid-2021-3

Nhóm nghiên cứu đã kết luận rằng nếu 50-65% mọi người cảnh giác trong cộng đồng, các biện pháp về cách ly xã hội giảm dần mỗi 80 ngày có thể giúp ngăn chặn các đợt đỉnh dịch trong 2 năm tiếp theo. “Chúng ta sẽ cần phải thay đổi văn hóa tương tác giữa người với người,”, Neto nói. Nói chung, tin tốt lành là ngay cả khi không có biện pháp xét nghiệm hoặc vắc xin, điều chỉnh hành vi có thể giúp tạo ra khác biệt đáng kể về khả năng lây nhiễm của bệnh dịch, ông nói.

Một nhà xây dựng mô hình bệnh truyền nhiễm khác là Jorge Velasco-Hernandez tại Đại học tự động hóa quốc gia Mexico ở Juriquilla và các cộng sự cũng kiểm tra so sánh giữa các biện pháp bảo vệ cá nhân và biện pháp phong tỏa. Họ thấy rằng, nếu 70% dân số Mexico cam kết các biện pháp bảo vệ cá nhân như rửa tay và đeo khẩu trang theo sau việc đóng cửa tự nguyện mà bắt đầu vào cuối tháng 3 năm 2020, thì đợt dịch của đất nước có thể giảm sau khi đạt đỉnh vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng tháng. Tuy nhiên, chính phủ gỡ bỏ biện pháp phong tỏa vào ngày 1 tháng 6 thay vì nới lỏng dần, các ca tử vong hàng tuần do COVID-19 đã không thay đổi. Nhóm của Velasco-Hernandez nghĩ rằng hai kỳ nghỉ công cộng đóng vai trò như hai sự kiện siêu lây nhiễm, là nguyên nhân khiến tỷ lệ mắc tăng cao ngay trước khi chính phủ gỡ bỏ lệnh hạn chế.

Giãn cách xã hội có thể sẽ cần được ban hành gián đoạn trong nhiều năm để ngăn chặn đỉnh dịch COVID-19

Ở các khu vực COVID-19 dường như đang giảm, các nhà nghiên cứu nói rằng phương án tốt nhất là giám sát cẩn thận bằng cách xét nghiệm và cách ly các ca nhiễm, theo dõi tiếp xúc của các ca nhiễm đó. Đây là cách làm ở Hồng Kông, “Chúng tôi thử nghiệm, theo dõi và điều chỉnh một cách từ từ”. Ông Wu cũng hi vọng rằng chiến lược này sẽ giúp ngăn chặn các đợt bùng dịch lớn, trừ khi các phương tiện bay mang tới số lượng đáng kể các ca nhiễm được nhập khẩu từ bên ngoài vào.

dich-covid-2021-4

Nhưng chính xác là bao nhiêu tiếp xúc cần theo dõi và cách ly để ngăn dịch bùng phát hiệu quả? Một phân tích bởi nhóm làm việc COVID-19 ở Trung tâm mô hình toán học bệnh truyền nhiễm tại LSHTM mô phỏng các đợt dịch mới bùng phát ở mức lây lan khác nhau, bắt đầu từ 5, 20 hoặc 40 ca khởi đầu. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng theo dõi tiếp xúc phải rất nhanh chóng và sâu rộng – theo dõi tới 80% tiếp xúc trong một vài ngày – đẻ có thể kiểm soát được đợt dịch. Nhóm nghiên cứu hiện tại đang đánh giá hiệu quả của việc theo dõi tiếp xúc bằng kỹ thuật số và bao lâu là khả thi để cách ly những người phơi nhiễm, đồng tác giả Eggo cho biết. “Tìm kiếm sự cân bằng giữa chiến lược thực tế mà mọi người có thể tuân thủ và những chiến lược để kiểm soát dịch bệnh, thực sự rất quan trọng.”

Theo dõi 80% lượng tiếp xúc là điều gần như không khả thi trong các khu vực đang phải vật lộn với hàng nghìn ca mắc mới mỗi tuần – và tồi tệ hơn, số lượng ca mắc cao nhất theo báo cáo có vẻ như cũng thấp hơn so với thực tế. Một ấn bản tháng 6 trước khi in từ nhóm của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) ở Cambridge phân tích dữ liệu xét nghiệm COVID-19 từ 84 quốc gia gợi ý rằng số ca nhiễm thực tế cao hơn 12 lần và số ca tử vong cao hơn 50% so với các số liệu báo cáo chính thức. “Có rất nhiều ca bệnh thực tế ngoài kia nhiều hơn số liệu đã chỉ ra. Hậu quả là, nguy cơ nhiễm bệnh cũng cao hơn nhiều so với những gì mọi người nghĩ,” John Sterman, đồng tác giả của nghiên cứu và là Giám đốc của MIT System Dynamics Group.

Tới giờ, các nỗ lực giảm thiểu, như giãn cách xã hội, miễn là còn có thể thì cần tiếp tục thực hiện để ngăn chặn đợt bùng phát dịch lớn lần thứ hai, theo Bhatt. “Cho tới những tháng mùa đông, mọi điều có thể trở nên nguy hiểm hơn trở lại.”

Điều gì sẽ xảy ra khi mùa lạnh tới ?

Cho tới giờ thì chúng ta đã thấy rõ ràng rằng mùa Hè không đồng nghĩa với việc có thể ngăn chặn virus, nhưng thời tiết ấm có thể khiến cho virus dễ dàng ngăn chặn trong khu vực ôn đới. Những khu vực lạnh hơn vào nửa cuối năm 2020, các chuyên gia nghĩ rằng có thể sẽ bị gia tăng mức độ lây nhiễm bệnh.

Có nhiều loại virus hô hấp trên người – Cúm, các loại Coronavirus gây bệnh trên người và virus hợp bào hô hấp (RSV) – tuân theo những biến động theo mùa, dễ bùng phát vào mùa đông, do đó virus SARS-CoV-2 có thể sẽ bùng phát theo. “Tôi nghĩ rằng tỷ lệ mắc SARS-CoV-2 và hậu quả của bệnh sẽ trầm trọng hơn vào mùa đông,” Akiko Iwasaki, một nhà miễn dịch sinh học tại Đại học Y khoa Yale ở New Haven, Connecticut, Hoa Kỳ, cho biết. Các bằng chứng gợi ý rằng không khí khô của mùa Đông giúp tăng độ ổn định và khả năng lây nhiễm của các virus hô hấp, và miễn dịch hô hấp lại bị suy giảm bởi không khí khô, bà bổ sung.

Thêm vào đó, không khí lạnh hơn khiến cho mọi người có xu hướng ở trong nhà, nơi mà virus dễ dàng lây nhiễm qua các giọt bắn hơn, Richard Neher, một nhà sinh học tính toán tại Đại học Basel ở Thụy Sĩ cho biết. Các mô phỏng của nhóm Neher cho thấy sự thay đổi mùa có ảnh hưởng tới khả năng phát tán của virus và có thể khiến cho việc kiểm soát bệnh ở các quốc gia Bắc bán cầu (Trong đó có Việt Nam) vào mùa đông này trở nên khó khăn hơn.

Trong tương lai, các đợt dịch SARS-CoV-2 có thể trở lại theo những đợt trong mùa đông. Nguy cơ đối với những người đã mắc COVID-19 có thể sẽ giảm đi, giống như là với Cúm, tuy nhiên, nó còn phụ thuộc vào tốc độ tồn tại miễn dịch với Coronavirus trong cơ thể, Neher cho hay. Hơn nữa, sự kết hợp giữa COVID-19 với Cúm và Virus hợp bào hô hấp trong mùa Thu, Đông có thể là một thách thức mới, Velasco-Hernandez, người đang thiết lập mô hình tương tác giữa các loại virus với nhau cho biết.

dich-covid-2021-5

Cho tới giờ vẫn chưa biết được rằng nhiễm virus với các loại Coronavirus khác có giúp cho người bệnh có bất kỳ khả năng bảo vệ nào trước SARS-CoV-2 hay không. Theo 1 nghiên cứu nuôi cấy tế bào có liên quan tới virus SARS-CoV-2 và gần giống với virus SARS-CoV, các kháng thể từ một Coronavirus có thể bám được lên các loại Coronavirus khác, nhưng không có khả năng bất hoạt hoặc trung hòa virus.

Để kết thúc đại dịch, virus SARS-CoV-2 phải bị loại bỏ hoàn toàn trên thế giới – điều mà hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng gần như không thể vì mức độ lây lan rộng rãi của nó – hoặc một cách khác là cơ thể con người phải được trang bị miễn dịch chống lại virus hay một loại vắc xin. Ước tính phải có 55-80% dân số phải được miễn dịch để có thể chấm dứt được dịch bệnh này, phụ thuộc vào từng quốc gia.

Thật không may là, các khảo sát bước đầu gợi ý rằng sẽ còn cả một chặng đường dài để đi với dịch bệnh COVID-19. Các ước tính từ các xét nghiệm kháng thể – xét nghiệm giúp phát hiện xem người đó có bị phơi nhiễm với virus và tạo thành kháng thể chống virus hay chưa – chỉ ra rằng chỉ một tỷ lệ nhỏ những người bị mắc, và mô hình bệnh tật được thiết kế dựa trên số liệu này. Một nghiên cứu trên 11 quốc gia Châu Âu đã tính toán tỷ lệ mắc từ 3-4% cho tới 4 tháng 5 năm 2020. Ở Hoa Kỳ, nơi có hơn 150,000 ca tử vong vì COVID-19, một khảo sát trên hàng nghìn mẫu huyết thanh, phối hợp cùng CDC Hoa Kỳ, đã thấy rằng kháng thể cho trong từ 1-6,9% mẫu, tùy theo từng khu vực lấy mẫu.

Điều gì sẽ xảy đến vào năm 2021 và sau đó ?

Tình hình đại dịch COVID-19 trong năm sau sẽ phụ thuộc rất lớn vào sự xuất hiện của một loại vắc xin, và thời gian mà miễn dịch cơ thể chống virus SARS-CoV-2 còn tồn tại sau khi được tiêm vắc xin hoặc sau khi phục hồi khi bị bệnh. Nhiều loại vắc xin cho các bệnh khác có khả năng bảo vệ tới hàng thập kỷ – chẳng hạn như vắc xin sởi hay bại liệt – trong khi có những loại vắc xin như ho gà và cúm, nhanh chóng hết hiệu lực bảo vệ. Tương tự vậy, một vài loại miễn dịch do virus có thể tồn tại lâu dài, một vài loại khác chỉ thoáng qua. “Tổng ca mắc SARS-CoV-2 tới 2025 sẽ phụ thuộc mật thiết vào thời gian tồn tại kháng thể này,” Grad, nhà nghiên cứu dịch tễ học Harvard và các cộng sự viết trên 1 nghiên cứu tháng 5 năm 2020.

Các nhà nghiên cứu cho tới nay biết rất ít về thời gian tồn tại của miễn dịch chống SARS-CoV-2. Một nghiên cứu trên các bệnh nhân COVID-19 sau hồi phục thấy rằng kháng thể trung hòa virus duy trì 40 ngày kể từ khi bắt đầu nhiễm; một vài nghiên cứu khác gợi ý rằng nồng độ kháng thể giảm sau một vài tuần hoặc tháng. Nếu COVID-19 có đặc điểm giống như SARS, kháng thể có thể duy trì nồng độ cao duy trì tới 5 tháng, và sau đó giảm dần 2-3 năm. Tuy nhiên, việc sản sinh kháng thể không phải là cách thức duy nhất bảo vệ bằng miễn dịch; tế bào nhớ B và T cũng có tác dụng chống lại virus trong tương lai, và ít được biết về vai trò hơn trong nhiễm SARS-CoV-2 cho tới nay. Để có câu trả lời rõ ràng hơn về miễn dịch, các nhà nghiên cứu cần phải theo dõi một số lượng lớn người trong một thời gian dài, theo Michael Osterholm, Giám đốc Trung tâm chính sách và nghiên cứu bệnh truyền nhiễm ở Đại học Minnesota, Minneapolis. “Chúng ta vẫn phải chờ đợi”

dich-covid-2021-7

Nếu tình trạng nhiễm bệnh tiếp tục tăng nhanh mà không có vắc xin hoặc không có khả năng miễn dịch kéo dài, , “chúng ta sẽ thấy những đợt lây nhiễm lớn, đều đặn của virus”, Grad cho hay. Trong tình huống đó, virus có thể trở thành đặc hữu, Pulliam cho hay. “Điều đó thực sự rất đau đớn.” Và sẽ không thể tưởng tượng được: sốt xuất huyết, một loại bệnh có thể phòng và điều trị được mà còn giết chết tới 400,000 người mỗi năm. “Kịch bản xấu nhất này đang xảy ra ở nhiều quốc gia với những bệnh có thể phòng ngừa, cướp đi rất nhiều sinh mạng mỗi năm,” Bhatt nói.

Nếu virus SARS-CoV-2 tạo ra miễn dịch ngắn hạn – tương tự với hai loại Coronavirus khác trên người, OC43 và HKU1, miễn dịch hết sau 40 tuần – sau đó người có miễn dịch lại bị nhiễm bệnh trở lại và có thể sẽ có các đợt dịch bùng phát hàng năm, nhóm nghiên cứu Harvard gợi ý. Một báo cáo bổ sung CIDRAP, dựa trên các xu hướng từ 8 tuần sau đại dịch COVID-19 toàn cầu, chỉ ra rằng hoạt động của COVID-19 còn rõ rệt sau 18-24 tháng tới, bất chấp có thể giảm được các đỉnh dịch hoặc giảm được dần dần khả năng lây nhiễm của bệnh. Mặc dù vậy, kịch bản này vẫn chỉ là phán đoán, bởi vì đại dịch này cho tới nay không tuân theo các đặc điểm của đại dịch Cúm, Osterholm nói. “Chúng ta ở trong đại dịch Coronavirus mà chưa từng có tiền lệ.”

dich-covid-2021-6

Một khả năng khác là miễn dịch với SARS-CoV-2 sẽ tồn tại lâu dài. Trong tình huống đó, kể cả không có vắc xin, sau khi dịch bệnh càn quét qua toàn thế giới, virus sẽ tự biến mất vào năm 2021. Tuy nhiên, nếu miễn dịch chỉ trung bình, tồn tại trong khoảng 2 năm, virus có thể nhìn như thể đã biến mất, tuy nhiên, nó có thể tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2024, nhóm nghiên cứu Harvard nói.

Dự đoán đó, tuy nhiên, không bao gồm khả năng phát triển thành công được loại vắc xin hiệu quả. Thực tế thì có vẻ như sẽ có loại vắc xin trong tương lai, dựa vào số lượng tiền và nỗ lực khổng lồ đổ vào nghiên cứu trong mảng này và thực tế là có một số ứng viên vắc xin đang được thử trên người, Velasco Hernadez cho hay. Tổ chức Y tế thế giới liệt kê 26 loại vắc xin COVID-19 hiện tại đang thử nghiệm trên người, và 12 loại đang ở pha thứ II và 6 loại ở pha III. Kể cả vắc xin không mang lại hiệu quả bảo vệ toàn diện thì nó cũng có thể giúp giảm bớt mức độ nghiêm trọng của bệnh và giảm nguy cơ nhập viện, Wu nói. Dù vậy, sẽ cần nhiều tháng để có thể phân phát được loại vắc xin đó.

COVID-19 sẽ tác động khác nhau tới các khu vực khác nhau. Những khu vực có dân số già có thể số lượng ca mắc nhiều hơn vào các giai đoạn cuối của dịch bệnh. Các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng mức độ nhạy cảm của trẻ em và người dưới 20 tuổi với COVID-19 chỉ bằng 1 nửa so với nhóm lớn tuổi hơn.

Có một điều rằng mỗi quốc gia, thành phố và cộng đồng bị đại dịch tràn tới là bình thường. Có nhiều thứ về virus mà chúng ta chưa hề biết tới, cho tới khi chúng ta chưa có đủ dữ liệu tốt hơn thì còn rất nhiều thứ thiếu chắc chắn.

Bài gố: https://www.nature.com/articles/d41586-020-02278-5

 

Bài viết Kịch bản thế giới năm 2021 trong bối cảnh dịch COVID-19 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Nghĩa NB.

]]>
https://nghianb.org/kich-ban-the-gioi-nam-2021-trong-boi-canh-dich-covid-19-100/feed/ 0 100